Cần có chính sách thúc đẩy dùng viên nén gỗ trong chuyển đổi nhiên liệu nồi hơi để giảm phát thải

Ngày 5/4, Tọa đàm 'Vai trò của viên nén trong chuyển đổi nhiên liệu nồi hơi – Hướng tới nền sản xuất phát thải thấp tại Việt Nam' tổ chức tại Hà Nội với mục tiêu thúc đẩy việc chuyển đổi nguồn nhiêu liệu phát thải cao như than đá, dầu sang sử dụng viên nén gỗ có mức phát thải thấp tại các cơ sở sản xuất.

Tiềm năng lớn nhưng 95% lượng viên nén sản xuất tại Việt Nam là để xuất khẩu

Trong sản xuất công nghiệp tại Việt Nam nồi hơi công nghiệp được sử dụng để cấp nhiệt, hơi, nước nóng cho các ngành: công nghiệp nhẹ: dệt may, giầy da, nhựa, thuốc lá, thực phẩm, rượu, bia, nước giải khát, thủy sản, chế biến nông nghiệp...; công nghiệp nặng: hóa chất cơ bản…

Chia sẻ Tại tọa đàm TS.Trần Văn Lượng – Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam cho biết: Hiện chưa có một thống kê đầy đủ chính thức về số lượng nồi hơi công nghiệp. Theo thông tin từ nguồn các tổ chức kiểm định nồi hơi hàng năm và đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về lao động, ước tính tại Việt Nam có khoảng 9.000 nồi hơi công nghiệp đang hoạt động. Nhiều cơ sở này sử dụng nguồn than đá để vận hành hệ thống nồi hơi. Việc chuyển đổi nguồn than đầu vào của các cơ sở này sang các nguồn nhiên liệu sạch hơn có tiềm năng lớn trong việc giảm phát thải ở quy mô quốc gia.

Trong khi đó, ngành hàng viên nén Việt Nam nói chung và viên nén gỗ nói riêng phát triển rất mạnh trong những năm vừa qua. Các phế phụ phẩm của ngành gỗ như cành củi, ngọn cây, mùn cưa, dăm bào... được đưa vào sản xuất viên nén.

Thông tin tại Tọa đàm, Hiệp hội Viên nén gỗ Việt Nam cho biết có khoảng 95% lượng viên nén gỗ sản xuất tại Việt Nam (khoảng 5 triệu tấn) được sử dụng để xuất khẩu, chủ yếu sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. Viên nén xuất khẩu được sử dụng làm nhiên liệu đầu vào, thay thế một phần cho lượng than đá hiện đang được sử dụng để sản xuất điện tại các quốc gia này.

Chỉ có khoảng 5% tổng lượng cung viên nén hiện đang được sử dụng nội địa, chủ yếu đưa vào hệ thống nồi hơi của các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ. Nhiều cơ sở đã và đang thực hiện việc chuyển đổi này (chủ yếu nằm trong chuỗi cung toàn cầu, ví dụ các nhà cung ứng cho các hãng hàng lớn như Adidas, Nike, Samsung...) Một số cơ sở nằm trong các khu công nghiệp nơi có các cam kết về phát thải thấp, chuyển đổi xanh...

Theo TS.Tô Xuân Phúc, đại diện Forest Trends,Với cam kết Net-Zero của Chính phủ, dư địa cho việc sử dụng viên nén gỗ tại thị trường nội địa là rất lớn. Trong đó thị trường Nhật Bản tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với ngành viên nén Việt Nam trong thời gian tới. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam còn có cơ hội thay thế nguồn cung viên nén từ Indonesia tại thị trường Nhật Bản bởi nguồn cung viên nén làm từ vỏ dầu cọ có nguồn gốc từ Indonesia có thể sẽ không đạt được chứng chỉ bền vững theo yêu cầu của Nhật Bản.

diễn giả tại Tọa đàm chuyển đổi nhiên liệu lò hơi theo hướng ít phát thải hơn
ệp hội Viên nén gỗ Việt Nam cho biết có khoảng 95% lượng viên nén gỗ sản xuất tại Việt Nam (khoảng 5 triệu tấn) được sử dụng để xuất khẩu.

Cần có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp

Để đạt mục tiêu theo cam kết mức phát thải Net-Zero vào năm 2050, Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách; trong đó có Nghị định 06/2022/NĐ-CP yêu cầu các cơ sở sản xuất có mức phát thải cao cũng như các bộ ngành phải giảm phát thải khí nhà kính. Theo đó Chính phủ đang thiết kế các cơ chế chính sách cần thiết để xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước.

Sự vận hành của thị trường này trong tương lai cho phép giao dịch tín chỉ các bon giữa các đơn vị có mức phát thải vượt mức cho phép và các đơn vị có mức phát thải dưới hạn ngạch và các đơn vị đầu tư hình thành tín chỉ các bon. Các cơ chế, chính sách mới này với mục tiêu giảm phát thải có tiềm năng tạo ra đột phá để giảm phát thải cấp quốc gia, đóng góp vào việc hoàn thành mục tiêu net-zero.

Tuy nhiên thực tế hiện các cơ chế chính sách về giảm phát thải khí nhà kính mới chỉ tập trung vào các cơ sở có mức phát thải cao, chủ yếu là ngành công nghiệp nặng như năng lượng, sản xuất hóa chất công nghiệp, vận tải. Các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ trong lĩnh vực như dệt, nhuộm, chế biến bia, nước ngọt, hệ thống lò sấy… có sử dụng nồi hơi công nghiệp hiện chưa được quan tâm, nhiều cơ sở này vẫn đang sử dụng nguồn than đá để vận hành hệ thống nồi hơi.
Tọa đàm cho thấy mặc dù tới nay chưa có con số thống kê về số lượng nồi hơi, công suất của các nồi hơi này cũng như tổng lượng nguyên liệu than đá đang được sử dụng để vận hành hệ thống nồi hơi này, tuy nhiên các chuyên gia ước tính lượng than đầu vào đang được sử dụng là không nhỏ. Việc chuyển đổi nguồn than đầu vào của các cơ sở này sang các nguồn nhiên liệu sạch hơn có tiềm năng lớn trong việc giảm phát thải ở quy mô quốc gia.

Tọa đàm đồng thời nêu ra thực trạng thách thức hiện nay đối với doanh nghiệp chuyển nồi hơi đốt sang biomass cũng không ít. Cụ thể như: doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư cho chuyển đổi; thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chế tạo nồi hơi đốt biomass; năng lực thiết kế, chế tạo của nhiều nhà chế tạo nồi hơi còn hạn chế. Bên cạnh đó, là chi phí đầu tư mới cao, chi phí cho phần cải tạo và chi phí do dừng sản xuất thực hiện chuyển đổi…

Một trong những thách thức nữa là thị trường carbon nội địa chưa hình thành nên chưa tạo thành động lực cho doanh nghiệp…Điều này cho thấy cần nhanh chóng có các cơ chế, chính sách và các hành động cụ thể để hình thành cầu thị trường thông qua các cơ chế bắt buộc và/hoặc khuyến khích các cơ sở nội địa chuyển đổi đồng thời tăng cường nâng cao nhận thức cho người sử dụng nồi hơi của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ về kiến thức sử dụng năng lượng hiệu quả phát thải thấp, hướng tới tham gia thị trường carbon (khi thị trường carbon vận hành). Trong đó cùng với các quy chuẩn, tiêu chuẩn về nồi hơi đốt nhiên liệu sinh khối cần có cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp chuyển đổi nồi hơi đốt nhiên liệu hóa thạch sang đốt sinh khối.

Tường Vy