thương mại miền núi
Toàn cảnh Diễn đàn

Sáng 5/10/2022 tại Hà Nội, Bộ Công Thương tổ chức Diễn đàn kinh tế Kết nối sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo năm 2022.

Tham dự Diễn đàn có các đồng chí Lãnh đạo Bộ Công Thương, Ủy ban Dân tộc; Lãnh đạo các Bộ, Ban ngành Trung ương và địa phương; Lãnh đạo các hiệp hội và doanh nghiệp; cùng các cơ quan thông tấn báo chí Trung ương và địa phương.

Nằm trong chuỗi sự kiện, hoạt động triển khai thực hiện Quyết định 1162/QĐ-TTg về Chương trình phát triển thương mại miền núi và hải đảo giai đoạn 2021-2025, Diễn đàn nhằm kết nối, hỗ trợ các đơn vị sản xuất kinh doanh sản phẩm đặc sản miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo.

TT.Hải kết luận

Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải phát biểu kết luận Diễn đàn:

Sau thời gian làm việc tuy không dài nhưng với tinh thần thẳng thắn, cầu thị, có trách nhiệm, chúng ta đã hoàn thành lịch trình Diễn đàn kinh tế Kết nối sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo năm 2022.

Trong sáng nay chúng ta đã nghe báo cáo cũng như xem video clip liên quan đến hoạt động của Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, ngành, các địa phương và đặc biệt là các doanh nghiệp về việc kết nối sản xuất cũng như tiêu thụ các sản phẩm có thế mạnh của các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo và đánh giá về các hoạt động trong thời gian qua. Đặc biệt là đã có hai phiên thảo luận mà chúng tôi thấy rằng hết sức hữu ích, rất cảm ơn tất cả các quý vị đã tham gia vào hai phiên thảo luận đó cũng như ý kiến của tất cả các anh chị, các quý vị đại biểu trong ngày hôm nay.

Trong thời gian tới, qua các phần phát biểu của các đại biểu chúng ta thấy rằng Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa giai đoạn 2021 - 2025 có nhiều điểm mới.

Đây là sự khác biệt và qua kinh nghiệm, qua quá trình thực hiện của giai đoạn trước đã đưa vào nhiều điểm mới và những nội dung yêu cầu cao hơn so với chương trình của giai đoạn trước. Đặc biệt là những nội dung về xây dựng mô hình phát triển các mặt hàng tiềm năng, lợi thế phù hợp với quy mô, dung lượng thị trường miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo cũng đã được đưa vào. Việc đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích tham gia vững chắc vào chương trình hội nhập đối với hàng hóa lợi thế, phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo…

Sau đó từ góc độ Bộ Công Thương, qua ý kiến phát biểu của các đồng chí lãnh đạo cơ quan Trung ương như đồng chí Y Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ cũng như là của đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên và đặc biệt là qua hai phiên thảo luận thì về phía Bộ Công Thương chúng tôi trong thời gian tới sẽ tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất là Bộ Công Thương sẽ giao cho các đơn vị, đầu mối là Vụ Thị trường trong nước rà soát, nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách, hoàn thiện khung pháp lý nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa có thế mạnh của miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.

Thứ hai, tập trung nghiên cứu phát triển bền vững, nâng cao giá trị gia tăng đối với hàng hóa được sản xuất tại các khu vực này.

Thứ ba, chú trọng tổ chức đào tạo, nâng cao năng lực và kết nối thị trường cho thương nhân tham gia xuất khẩu hàng hóa của khu vực qua biên giới.

Thứ tư, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các địa phương và hệ thống phân phối để tổ chức các hoạt động phân phối hàng hóa phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng tại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; tiếp tục kết nối đưa hàng hóa là lợi thế của các khu vực này vào các kênh phân phối trên thị trường trong nước và ngoài nước.

Thứ năm, Bộ Công Thương tiếp tục đề nghị Chính phủ quan tâm, bố trí nguồn ngân sách Nhà nước để hỗ trợ đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp các chợ truyền thống ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, đặc biệt ở những vùng còn rất nhiều.

Đây cũng là ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong trong phát biểu của đồng chí đã đề cập.

Thứ sáu, tiếp tục đề xuất với Chính phủ cần có chính sách khuyến khích, ưu đãi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển hạ tầng thương mại tại miền núi, vùng sâu, vùng và hải đảo, tạo điều kiện thúc đẩy thương mại tại khu vực này.

Trước nay thì cũng đã có nhưng chúng tôi thấy rằng vẫn tiếp tục phải có những chính sách để khuyến khích mạnh hơn nữa và có thể nói là có đủ lực hấp dẫn đối với các doanh nghiệp thì về phía các cơ quan của Chính phủ như chúng tôi cũng xác định làm hết sức nhưng ở góc độ của Chính phủ, kể cả chính quyền địa phương thì cũng là một góc độ thôi. Vai trò mấu chốt để phát triển được sản xuất cũng như kết nối để tiêu thụ sản phẩm phải là doanh nghiệp mà muốn doanh nghiệp tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn thì chính các doanh nghiệp cũng phải có hiệu quả. Còn tất nhiên doanh nghiệp thì không thể đi làm chính trị để làm thay công việc của Chính phủ được.

Và cuối cùng, đề nghị các địa phương hàng năm cần quan tâm hơn nữa và bố trí một phần kinh phí từ nguồn ngân sách địa phương để thực hiện Chương trình.

Đây cũng là ý kiến chúng tôi rất mừng là hôm nay qua phát biểu của các địa phương và nhất là của đồng chí Phạm Đức Toàn, Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong thấy rằng chúng ta cần đầu tư hơn nữa, quan tâm hơn nữa và nhất là phần kinh phí từ Chính phủ và nguồn địa phương để thực hiện Chương trình này.

Một lần nữa, chân thành cảm ơn toàn thể quý vị đại biểu đã đến dự và góp phần cho thành công của Diễn đàn kinh tế Hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo năm 2022.

thảo luận 2

Phiên thảo luận 2: Vai trò hỗ trợ của chính sách

MC Phí Linh: Thưa quý vị, từ chia sẻ của các doanh nghiệp tại phiên thảo luận thứ nhất, có thể thấy, hơn bao giờ hết, người sản xuất cũng như doanh nghiệp phân phối và tiêu thụ đang rất cần được đồng hành, hỗ trợ bởi những quyết sách đủ mạnh, để sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo có thể “cất cánh”, góp phần thay đổi diện mạo của những vùng đất đặc biệt khó khăn. Kinh nghiệm thực tiễn mà các doanh nghiệp nêu lên cũng là cơ sở quan trọng để đối chiếu lại hiệu quả thực hiện của chính sách khi đi vào đời sống.

Sau đây, chúng ta sẽ cùng đến với những chia sẻ của các khách mời xung quanh vấn đề: Vai trò hỗ trợ của chính sách. 

Các diễn giả tham gia:

- TS. Nguyễn Minh Phong - Nguyên Trưởng Phòng nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội

- Bà Lê Việt Nga - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương)

- Ông Nguyễn Huy Tưởng - Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Lào Cai

- Ông Lê Mạnh Phong - Giám đốc điều hành khối cửa hàng Big C/GO khu vực Hà Nội và miền Bắc, Tập đoàn Central Retail Việt Nam

MC Phí Linh: Sau những chia sẻ của các doanh nghiệp rất tâm huyết ở phần 1 của Chương trình thì chúng ta cũng nhìn thấy rõ là còn bộn bề những công việc mà các nhà quản lý, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải thực hiện để có thể hỗ trợ và phát triển các sản phẩm đặc sản của Việt Nam.

Có lẽ là câu hỏi đầu tiên xin được hỏi TS. Nguyễn Minh Phong. Chúng ta đã biết là ngày 13/7/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1162/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021-2025. Trong phần đầu của Diễn đàn ngày hôm nay chúng ta cũng có nhắc đến việc Quyết định này đã có những sự thay đổi và yêu cầu mạnh mẽ hơn sự vào cuộc của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn mới 2021-2025.

Vậy ông đánh giá thế nào về mục tiêu, định hướng phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo trong Quyết định số 1162/QĐ-TTg ở giai đoạn mới này, thưa ông?

TS.Phong

TS. Nguyễn Minh Phong - Nguyên Trưởng Phòng nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội: Có thể nói, Quyết định số 1162/QĐ-TTg của Chính phủ là một quyết định rất kịp thời, rất đúng đắn và đặc biệt là nó có nhiều những điểm đột phá để hy vọng tạo ra nhiều kì vọng mới cho phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với 4 mục tiêu lớn của Chương trình, 9 mục tiêu cụ thể cũng như là 6 định hướng của Nghị quyết đã nêu ra. Đặc biệt, chúng tôi rất chia sẻ một thông điệp, triết lý ở trong Quyết định này, đó là việc là coi thương mại như là một trong những kênh tạo sinh khí mới cho phát triển miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.

Những mục tiêu mà Quyết định nêu ra không chỉ đơn thuần là tăng về mặt lượng (các sản phẩm, cơ cấu, tỷ trọng, quy mô,…) mà nó còn tác động và đẩy rất mạnh  yêu cầu về chất lượng của sản phẩm, để có thể đảm bảo yêu cầu hội nhập, để có thể đảm bảo kết nối và đưa hàng hóa đó ra thị trường trong nước nói chung cũng như là trên thế giới.

Quyết định này không chỉ giúp tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân, mà bao gồm cả cải thiện theo hướng người dân được phép tiêu thụ hàng sạch, được quyền tiếp cận hàng chất lượng cao, hàng Việt Nam để đảm bảo sức khỏe của mình, chứ không phải chỉ bán hàng của mình cho các nơi khác để tăng thu nhập. Đây là một trong những điểm cực kỳ quan trọng.

Hơn nữa, Quyết định này còn giúp thúc đẩy kinh tế của địa phương và đặc biệt là phát triển kinh tế theo hướng hàng hóa, đưa tư duy của người dân ở những vùng này theo tư duy thị trường, sản xuất hàng hóa chứ không phải là sản xuất theo kiểu thừa mới bán đi, như tỉnh Điện Biên vừa chia sẻ.

Bên cạnh đó, Quyết định này còn giúp thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền. Đây là một trong những điểm tôi cho rằng cực kỳ quan trọng. Chúng ta biết rằng vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo mặc dù chỉ chiếm đâu đó khoảng 15% dân số cả nước, nhưng chiếm đến trên 50% dân số nghèo - một mức độ rất cao, chênh lệch rất lớn. Vì thế, việc tạo công ăn việc làm, dùng thương mại thúc đẩy thu hẹp khoảng cách là một mục tiêu không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt xã hội - chính trị. Nó giúp cho người dân ở lại tại chỗ, yên tâm không phải xuất khẩu “lậu” qua biên giới, dẫn tới bị bóc lột hay bị những hình thức khác. Và đặc biệt nó giúp củng cố lại công tác an ninh địa phương.

Tất cả những điều đó là những mục tiêu cực kì quan trọng. Và những mục tiêu cụ thể của Quyết định 1162 cũng rất là cần thiết. Chúng tôi cho rằng nó đã bám sát được toàn bộ chuỗi, bao gồm liên quan đến mục tiêu về mặt cơ cấu sản xuất hàng hóa, chất lượng và chủng loại hàng hóa, hướng tới khai thác những  sản phẩm mang tính đặc thù, đặc hữu, phù hợp với địa phương. Đây là một trong những định hướng hoàn toàn quan trọng, rất đúng.

Thứ hai, nó bám theo kênh phân phối, anh có hàng hoá nhưng anh cũng anh phải có phân phối tốt. Vì thế mà mục tiêu, định hướng phát triển một chuỗi cung ứng là rất cần thiết để đảm bảo sự kết nối giữa cung - cầu, giữa thị trường, giữa các vùng đồng bào với các thị trường tiêu thụ. Hơn nữa, nó phát triển thông qua những thể chế phù hợp với địa phương, bao gồm chợ bán buôn, điểm bán nhỏ hàng hóa, trung tâm dịch vụ ở những vùng thích hợp; hay chúng tôi cũng rất muốn bổ sung thêm và rất ủng hộ ý kiến như chị Nguyễn Thị Thành Thực vừa nói, là bao gồm cả những hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ số - đây là một sáng kiến, một thuật ngữ mới rất hay. Chúng tôi hy vọng rằng thông qua Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Dân tộc để thông qua các tổ chức Đảng, đây sẽ trở thành một trong những mô hình mới, kết hợp giữa yêu cầu về hợp tác xã với chuyển đổi số. Và như vậy đây là một mô hình vừa giúp chuyển đổi số trong hợp tác xã, vừa giúp kết nối thương mại rất là tốt.

Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng việc thực hiện những hoạt động về bảo hộ, chỉ dẫn địa lý, xây dựng thương hiệu, bảo vệ thương hiệu và quảng bá thương hiệu thông qua các sàn, các doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng và cần thiết.

Với tinh thần đó, việc tiếp tục tập trung nhiều hơn nữa vào những chính sách, tôi lấy ví dụ như là chính sách về quản lý thị trường; chính sách về mặt tài chính - tín dụng, đặc biệt là giảm thuế, hỗ trợ tín dụng; chính sách về hỗ trợ mặt bằng; chính sách về phát triển giao thông; chính sách về chuyển giao công nghệ, xây dựng các kênh thông tin, đào tạo nhân lực và đặc biệt là bảo vệ môi trường - văn hóa của bản địa là cực kỳ quan trọng. Và tất cả những điều đó đã được thể hiện ở trong Quyết định 1162, nhưng điểm cuối cùng là điểm mà tôi lưu ý cần nhần mạnh hơn nữa trong khi triển khai Quyết định này.

MC Phí Linh: Những chia sẻ của ông cho chúng ta thấy, khi mà chúng ta có một mục tiêu, một định hướng đúng sẽ kéo theo những giải pháp đúng đắn, kéo theo những cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp hoặc các hộ sản xuất ở địa phương có thể phát triển được đặc sản của Việt Nam.

Rõ ràng, sự chủ động từ phía các địa phương cũng rất là lớn. Ở đây có ông Nguyễn Huy Tưởng là Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Lào Cai, chúng tôi cũng muốn đặt câu hỏi tới ông, việc huy động nguồn lực để hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thương mại sẽ cần được thực hiện như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất? Chúng ta thấy chị Chal Thi đến từ Trà Vinh vừa chia sẻ một mô hình doanh nghiệp phát triển bùng nổ như vậy ở một địa phương mà mật hoa dừa đã bị mai một 100 năm nay rồi. Ví dụ như chúng ta có những mô hình phát triển như vậy thì sẽ cần có những  giải pháp nào để hỗ trợ, thúc đẩy, khuyến khích hoạt động của các doanh nghiệp đó?

Tưởng SCT Lào Cai

Ông Nguyễn Huy Tưởng - Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Lào Cai:

Có lẽ là không riêng gì Lào Cai, mà các tỉnh trong khu vực Tây Bắc cũng như rất nhiều địa phương trên cả nước trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều những hoạt động để thúc đẩy kết nối sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm của đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.

Trong thời gian qua, khi tổng kết Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị, tỉnh Lào Cai nói riêng cũng như các tỉnh trong khu vực Tây Bắc nói chung đều có một đặc điểm hết sức quan trọng, đó là trên 81% dân số ở khu vực Tây Bắc sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; dân cư sinh sống phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp.

Đối với Lào Cai, hiện nay có 25 nhóm, ngành dân tộc và cũng có đến 73% đồng bào sống ở khu vực nông thôn, vùng núi, vùng cao. Việc huy động nguồn vốn, nguồn lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông sản, như chúng ta đã biết, thực sự là khó khăn. Thứ nhất là khó khăn xuất phát chính từ cơ sở hạ tầng của các khu vực này còn yếu kém. Thứ hai là thị trường tiêu thụ nhỏ bé.

Chính vì vậy mà việc thu hút đầu tư của các doanh nghiệp cũng như các hợp tác xã đến với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo nhận định chung là cực kỳ khó khăn.

Lào Cai xin phép được chia sẻ một số nhiệm vụ, giải pháp đã triển khai trong thời gian qua để thu hút đầu tư đối với khu vực sản xuất nông nghiệp.

Trước hết, Lào Cai xác định những tiềm năng, lợi thế của tỉnh để tập trung phát triển, có 6 nhóm mặt hàng chủ lực mà Lào Cai sẽ tập trung đầu tư, đó là mặt hàng chè, dược liệu, chuối, dứa và lĩnh vực chăn nuôi lợn.

Trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh của địa phương như thế, chúng tôi xác định rằng chúng ta phải thay đổi tư duy. Tư duy ở đây là từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ cần phải thay đổi tư duy sang sản xuất phát triển kinh tế nông nghiệp, trên cơ sở đó thu hút các doanh nghiệp, hợp tác xã để hình thành nên những dự án có quy mô lớn, có thể áp dụng được các tiến bộ khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong  tình hình hiện nay.

Vấn đề thứ hai mà Lào Cai cũng đẩy mạnh, đó là phải thực hiện chủ trương chung của Trung ương cũng như của địa phương trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 19 về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đây là một Nghị quyết rất lớn của Trung ương và Lào Cai đang bám sát Nghị quyết này. Nguồn vốn mà Trung ương cũng như địa phương dành cho phát triển nông nghiệp thì tỉnh Lào Cai cũng đang triển khai rất quyết liệt 3 Chương trình mục tiêu quốc gia.

Vấn đề thứ ba là trong kết nối tiêu thụ sản phẩm nông sản hàng hóa, Lào Cai luôn đặt mình trong vai trò kết nối của cả vùng, của cả nước. Theo Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội khu vực Trung du miền núi phía Bắc, tỉnh Lào Cai được xác định là trung tâm kết nối giao thương giữa Việt Nam, các nước ASEAN và vùng Tây Nam Trung Quốc. Vì vậy, trước khi dịch bệnh Covid-19 xảy ra, hàng năm Lào Cai đã hỗ trợ cho các tỉnh như Bắc Giang, Hưng Yên, Sơn La và các tỉnh miền trong như Bình Thuận, Long An,… tiêu thụ trên 1 triệu tấn nông sản, hàng hóa qua cửa khẩu, kết nối với thị trường Trung Quốc.

Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như sát cánh cùng các địa phương trong cả nước, hoạt động xuất khẩu nông sản qua biên giới tại Lào Cai hiện rất ổn định và không có tình trạng ách tắc. Đây là sự vào cuộc rất hiệu quả từ các Bộ, ngành Trung ương cũng như các địa phương trong thời gian qua.

Điều cuối cùng mà tỉnh Lào Cai muốn chia sẻ với Diễn đàn, đó là Lào Cai luôn phát huy truyền thống đoàn kết, và đặc biệt 25 dân tộc anh em trên địa bàn tỉnh luôn có một khát vọng vươn lên, đưa quê hương tiếp tục phát triển hơn nữa.

MC Phí Linh: Xin trân trọng cảm ơn ông Nguyễn Huy Tưởng. Chúng tôi cũng hy vọng là thông qua phần trình bày của các diễn giả đến với chương trình ngày hôm nay, đặc biệt là những diễn giả đã tham gia phần 1, thì Lào Cai cũng như tất cả các địa phương tham gia các diễn đàn ngày hôm nay có thêm cảm hứng để trở về phát huy nhiều hơn nữa những giá trị của địa phương mình.

Song hành cùng hành trình đó không thể không nhắc đến vai trò của Bộ Công Thương. Tôi đã được gặp chị Nga rất nhiều lần trong phòng chờ các chuyến bay đi khắp nơi, khắp các tỉnh, thành của Việt Nam để kết hợp với các địa phương trong việc quảng bá những sản phẩm đặc sản của địa phương.

Vậy thưa bà Lê Việt Nga, những sự thay đổi, đổi mới nào đã được Bộ Công Thương thực hiện trong công tác hỗ trợ sản xuất và kết nối tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo thời gian qua?

Nga TTTN

Bà Lê Việt Nga - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương): Vụ Thị trường trong nước chúng tôi là một đầu mối kết nối, không chỉ về cung - cầu mà còn kết nối để xây dựng những mạng lưới cùng nhau hỗ trợ phát triển và tiêu thụ được một dòng hàng hóa nào đó. Trong đó, sản phẩm đến từ miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo là một trong những dòng khóa mà chúng tôi luôn luôn quan tâm và có một sự ưu tiên đặc biệt. Trong mạng lưới mà chúng tôi cùng nhau đồng hành từ khi có Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đã có rất nhiều doanh nghiệp cùng chung tay để làm việc đó, cũng như các cơ quan truyền thông báo chí, các cơ quan quản lý nhà nước, các Bộ ngành đã hỗ trợ, và đặc biệt là sự ủng hộ cũng như hưởng ứng khá mạnh mẽ từ phía các địa phương và các hệ thống phân phối, mà như trong khán phòng hôm nay tôi thấy có sự hiện diện của các hệ thống phân phối lớn nhất tại Việt Nam và các hệ thống thương mại điện tử lớn.

Với sự kết nối này, từ trước đến nay đã có những hoạt động hỗ trợ cho những dòng hàng khó khăn nhất của các vùng khó khăn nhất, tiếp cận được với người tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế, đưa ra cả những kênh phân phối xuất khẩu.

Chúng tôi thấy rằng có một số đổi mới:

Thứ nhất, trong giai đoạn chống dịch Covid-19 khó khăn như vậy, các hệ thống phân phối trong nước đã ưu tiên kết nối online để hỗ trợ và nhận luôn những phần hàng hóa của các địa phương đưa vào quầy kệ của mình, đôi khi nếu như chưa đạt chuẩn của quầy kệ thì cũng dành một không gian rất đẹp, rất trân trọng ở phía trước mặt tiền của các trung tâm thương mại, siêu thị - nơi người tiêu dùng đến mua sắm thì luôn tiếp cận đầu tiên - để bán những phần hàng dành riêng cho các tỉnh, địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, thậm chí còn bỏ cả chi phí ra để trang trí, biểu diễn văn nghệ thu hút người tiêu dùng đến. Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử để hỗ trợ tiêu thụ các mặt hàng này cũng rất tốt.

Thứ hai, chúng tôi nhận thấy rằng, với sự đổi mới của các Bộ, ngành và thông qua rất nhiều chương trình mới được ban hành như Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, trong đó có dòng hàng OCOP đại đa số cũng đến từ những địa bàn khó khăn này và một số vùng nông thôn… đã được hỗ trợ về mặt marketing ở quy mô quốc gia hay cấp tỉnh, để người tiêu dùng biết đến nhiều và đưa vào hệ thống phân phối trong nước, từ hệ thống phân phối lớn cho đến những cửa hàng nhỏ hay những cửa hàng chuyên doanh như Craft Link để chúng ta có thể tiếp cận và mua được.

Thứ ba, đặc biệt hơn nữa là sự gắn kết giữa các ngành với nhau và một trong những ngành mà đã thu hút được khách du lịch đến là  du lịch -  văn hóa với những lễ hội đã hỗ trợ rất nhiều cho việc phát triển thương mại ở những khu vực khó khăn. Hay là việc mang hàng về miền xuôi thông qua những tuần hàng, lễ hội văn hoá, chương trình kích cầu du lịch đã kéo được người tiêu dùng, khách tiêu dùng trong nước và quốc tế đến để mua hàng hóa và được trải nghiệm ngay những hàng hóa đó tại nơi sản xuất.

Chúng tôi thấy rằng có ba điểm mới đó rất hay và được các địa phương hưởng ứng, coi là trọng điểm. Thêm nữa là truyền thông bây giờ rất tuyệt vơi khi có thêm hình thức đa phương tiện, từ các kênh truyền hình lớn đến tất cả các báo, đài đều có những kênh online, tương tác với cộng đồng mạng xã hội đã giúp lan tỏa, giới thiệu được về văn hóa, về năng lực sản xuất, về những đặc điểm mà mang tính chất vùng miền rất hay để giới thiệu đến người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Thương mại xuyên biên giới của các kênh thương mại điện tử cũng đã được mở rộng, góp phần đưa hàng hóa đi rất xa. Chính vì vậy chúng tôi cũng đã điều chỉnh chính sách và trình lên Chính phủ phê duyệt Chương trình mới giai đoạn 2021-2025.

Ngày hôm nay, được ngồi cạnh TS. Nguyễn Minh Phong, chúng tôi cũng đã trao đổi và sẽ báo cáo lãnh đạo Bộ Công Thương trong năm tới triển khai một chuỗi các chương trình gắn kết giữa thương mại và du lịch, để thấy rằng hoạt động này thực sự hiệu quả. Chúng tôi đã bán được hàng ngàn tấn bí xanh của vùng sâu trên Bắc Kạn, một sản phẩm rất khó nhưng nhờ qua các chương trình như vậy, các hệ thống phân phối như Central Retail, MM Mega Market, WinMart, Saigon Co.op,… đã rất hưởng ứng để đưa vào phân phối đến người tiêu dùng. Một sản phẩm ở vùng sâu nhất như vậy chúng ta còn bán được, thì tôi nghĩ rằng nhờ vào hoạt động thu hút du lịch tại hồ Ba Bể trên đó. Hay là gạo ngon ở vùng Mù Cang Chải trong mùa lúa chín thế này chúng ta cũng sẽ rất dễ bán.

Như vậy, về chính sách, chúng tôi nghĩ rằng còn phải hoàn thiện rất nhiều trên cơ sở những mô hình thực tiễn mà chúng tôi thấy rằng đang đi theo hướng rất hiệu quả và rất hay khi bảo tồn được nét văn hóa truyền thống. Rất nhiều chương trình khác của nhà nước như xây dựng hạ tầng cơ sở điện đường trường trạm tốt lên, chợ tốt lên qua Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo,… thì thời gian tới đây điều kiện để chúng ta triển khai được chương trình này sẽ dễ hơn giai đoạn trước rất nhiều. Sẽ có nhiều con đường cao tốc lên Sơn La, Điện Biên, chúng ta không phải đi qua những thung khe nguy hiểm nữa, để hàng hóa vận chuyển được thuận lợi hơn nữa, hay là sẽ có những chính sách mới đột phá trong việc này, chúng tôi cho là sẽ có rất nhiều điểm mới nữa trong thời gian tới.

MC Phí Linh: Rõ ràng chúng ta cần những giải pháp đồng bộ và sự kết hợp của nhiều Bộ, ngành, cơ quan và cả doanh nghiệp nữa. Quả thực, lãnh đạo tỉnh Điện Biên đi đến đây phải bắt đầu lên xe từ chiều tối ngày hôm qua để sáng sớm ngày hôm nay có mặt ở đây chia sẻ với Diễn đàn thì con đường đó của những  sản phẩm đặc sản làm sao chúng ta rút ngắn nhất có thể, để mang lại hiệu quả hơn trên hành trình đến với người tiêu dùng.

Và cũng xin được chia sẻ với ông Tưởng, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Lào Cai, ông cũng chia sẻ rất là lo cho sản phẩm, vì không có thị trường tiêu thụ khi sản xuất ở các vùng khó khăn, hưng cá nhân tôi rất ngạc nhiên khi Big C bán bí nếp và bán rất chạy, sau đó cũng chỉ ở Big C thì tôi mới mua được lá giang và rau đắng của miền Tây Nam Bộ để nấu trong những món ăn của gia đình mình.

Vậy chúng ta có thể thấy vai trò rất quan trọng của của những đơn vị cung ứng hàng hóa, nơi kết nối các sản phẩm đặc sản của địa phương đến người tiêu dùng. Xin hỏi ông Lê Mạnh Phong - Giám đốc điều hành khối cửa hàng Big C/GO khu vực Hà Nội và miền Bắc, Tập đoàn Central Retail Việt Nam, được biết “Sinh kế cộng đồng” có thể nói là một trong những dự án thành công của Central Retail khi huy động được “tổng lực” tham gia của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức phi chính phủ, địa phương, người nông dân và doanh nghiệp. Ông có thể chia sẻ thêm về mô hình này?

Phong BigC

Ông Lê Mạnh Phong - Giám đốc điều hành khối cửa hàng Big C/GO khu vực Hà Nội và miền Bắc, Tập đoàn Central Retail Việt Nam:

Thực hiện tầm nhìn “Đóng góp vào sự thịnh vượng của Việt Nam và nâng cao chất lượng sống của người Việt”, ưu tiên của Tập đoàn Central Retail tại Việt Nam xuyên suốt từ ngày hoạt động tới nay, thông qua hệ thống đại siêu thị Big C/GO!/Topsmarket, trước hết là ưu tiên hàng Việt Nam; thứ hai là ưu tiên hàng sản xuất ở các địa phương, vùng miền; thứ ba là các Chương trình tập trung cho các sản phẩm OCOP; và một phần nhỏ trong đó là các sản phẩm Sinh kế cộng đồng.

Sinh kế cộng đồng là một phần trong những ưu tiên về sản xuất trong nước của Tập đoàn Central Retail Việt Nam, và nó cũng khác với việc mua bán thông thường. Đó là những nhà cung cấp rất nhỏ, ở đây được xác định là những hộ kinh doanh cá thể đang rất là khó khăn, các hộ gia đình người dân tộc thiểu số,… Tuy nhiên, đây là những hộ gia đình có năng lực về sản xuất, tức là họ có làm ra được một sản phẩm đặc thù, có giá trị thương mại nhưng họ không có đầu ra, họ không biết cách tiêu thụ như thế nào hay là họ không biết tham gia vào các chuỗi thương mại như thế nào, thì đấy là lúc mà Central Retail sẽ có một dự án đặc biệt để tham gia giúp các hộ nông dân như vậy.

Mặc dù rất xa, nhưng hiện nay ở trong hệ thống của đại siêu thị BigC/GO!/Topsmarket, các sản phẩm bí của Bắc Kạn, rau trên Sa Pa (Lào Cai), rau ở Vân Hồ (Sơn La) đã là những sản phẩm trong hệ thống từ năm 2017 đến nay, và đó là những sản phẩm mà đến thời điểm này đã giúp cho đời sống của các hộ nông dân, hộ kinh doanh cá thể cũng như các đồng bào dân tộc thiểu số cải thiện hơn rất nhiều.

Chúng tôi cũng có nói nhiều đến trường hợp của anh Vàng A Sa ở Vân Hồ, thì bây giờ đã trở thành một nhà sản xuất rất lớn, thậm chí năng lực sản xuất của của anh Vàng A Sa ban đầu chỉ là cá thể và cung cấp cho Big C, nhưng đến nay anh đã có thể cung cấp hàng hóa thương mại cho các chuỗi và hệ thống khác.

Đầu tiên, chúng tôi phải xác định nó là mục tiêu và là một trong chính sách xuyên suốt, thì chúng tôi mới làm được. Bởi khi làm những công việc như vậy thì chúng tôi sẽ phải có một đội ngũ chuyên viên để tham gia cùng. Làm việc với nhà cung cấp bình thường để đưa vào hệ thống thương mại hiện đại không hề dễ dàng, khi các hộ gia đình hoặc thương mại của chúng ta đang phần lớn là thông qua kênh truyền thống - kênh chợ - và các tiêu chuẩn cũng như các quy trình đã là một bước khó khăn khi thuyết phục các hộ sản xuất nông sản đi vào trong kênh hiện đại. Thế còn đối với các hộ sản xuất rất nhỏ lẻ và thậm chí là nói tiếng dân tộc nữa, thì nó sẽ là một công việc vô cùng khó khăn. Một chuyên viên thu mua của chúng tôi có thể quản lý hàng trăm nhà cung cấp, nhưng để làm việc với các địa phương thì họ chỉ có thể làm việc được với một địa phương và sẽ mất rất nhiều ngày để có thể lên trên các địa bàn, không thể ngồi tại Hà Nội làm việc được. Phải lên địa bàn, phải làm việc, sau đó đầu tiên là phải thuyết phục các hộ nông dân tham gia cùng chương trình của chúng tôi.

Đấy là một thời gian rất dài. Ý tưởng của dự án thì từ năm 2016 mà sang năm 2017 mới bắt đầu có sản phẩm vào trong hệ thống được. Tuy nhiên, có thể nói, cho đến thời điểm này thì chính những sản phẩm của Chương trình Sinh kế cộng đồng đã mang lại một điểm khác biệt trong hệ thống của đại siêu thị và siêu thị của chúng tôi.

Như vậy, giai đoạn đầu, nếu như chúng ta có một chính sách hỗ trợ từ phía doanh nghiệp, một định hướng từ phía doanh nghiệp rằng chúng ta chấp nhận có những đầu tư ban đầu về nguồn lực con người, cũng như chắc chắn là với hàng nông sản thì khi mà chưa quen, chưa có khách hàng thì giai đoạn đầu sẽ là giai đoạn vô cùng khó khăn, bởi có thể chúng ta nhập về chúng ta không bán được và nó lại không phải là hàng hóa có thể trữ được như hàng khô. Cũng có thể giai đoạn đầu chúng ta bán không bù được những sản phẩm chúng ta phải bỏ đi vì cuối ngày là bị khô héo. Khi chúng ta vượt qua giai đoạn đó, chúng ta có một lượng khách hàng ổn định thì chúng ta có thể có được lợi ích thương mại, lợi ích kinh tế từ việc kinh doanh sản phẩm sinh kế.

Đến thời điểm này, với Central Retail cũng như hệ thống cụ thể là Big C và GO! chúng tôi thấy là những gì chúng tôi làm được còn hạn chế, mới có 7 dự án thôi, ở miền Bắc là Sơn La, Lào Cai, Bắc Kạn; miền Trung là Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Buôn Ma Thuột và Bình Định; và đội ngũ cũng đang tiếp tục nghiên cứu thêm.

Tuy nhiên, để một dự án Sinh kế thành công, thì như đã chia sẻ, chúng tôi hướng tới các hộ sản xuất nhỏ nhưng sản phẩm đặc thù, có giá trị thương mại và để làm được việc đó thì bên cạnh doanh nghiệp, cần sự tham gia của các lãnh đạo địa phương, đặc biệt của ngành nông nghiệp và ngành Công Thương.

Bởi khi chúng ta có một hộ đưa sản phẩm vào trong hệ thống bán lẻ hiện đại, thì chắc chắn công việc thủ tục giấy tờ là phải có. Chúng tôi có rất nhiều ưu đãi dành cho các hộ sản xuất, như: không có yêu cầu về chiết khấu, hỗ trợ về hệ thống vận tải, cũng như chắc chắn là giai đoạn đầu hỗ trợ về trưng bày, mặc dù có thể có những rủi ro về hủy hàng,… Đây là những thứ mà doanh nghiệp có thể làm được. Tuy nhiên chất lượng sản phẩm chắc chắn là thứ mà chúng ta không thể đàm phán được, hay các quy định về mặt thủ tục giấy tờ sẽ không thể đàm phán được, thì đó là những thứ mà thực sự nếu như không có sự tham gia của chính quyền địa phương là không làm được.

Bởi vì xét cho cùng, khách hàng cuối cùng của chúng ta, khách hàng cuối cùng của BigC Central là người tiêu dùng và người tiêu dùng mới là người quyết định sản phẩm này tiếp tục có bán được hay không, có tiếp tục được mua lại không, có muốn giới thiệu cho họ hàng, bạn bè mua hay không…

Do đó, chúng ta thống nhất với nhau là phải lấy chất lượng sản phẩm là hàng đầu. Có thể những chính sách khác là ưu đãi, ưu tiên như địa phương ưu tiên, doanh nghiệp bán lẻ ưu tiên nhưng mà cuối cùng sản phẩm của chúng ta có thể tiếp tục ở thị trường và tiếp tục phát triển thành công thì lại phụ thuộc vào việc có sản phẩm hay không và chất lượng có được kiểm soát hay không.

Để làm được tất cả các công việc như vậy không hề đơn giản và ngoài nỗ lực của doanh nghiệp ra thì chưa bao giờ đủ hết; ngành nông nghiệp sẽ tham gia vào những công tác về tư vấn để kiểm soát chất lượng sản phẩm; ngành công thương sẽ tham gia vào hỗ trợ hoàn thiện hồ sơ thủ tục giấy tờ để mua sản phẩm đưa vào hệ thống bán hàng.

Đến thời điểm này chúng tôi vẫn tiếp tục với kế hoạch của mình, tuy nhiên dự án sẽ không bao giờ là nhiều bởi vì khi một nhà cung cấp phát triển lớn lên sẽ trở thành nhà cung cấp bình thường.

Qua các bài trình bày cũng như trao đổi của chị Lê Việt Nga chúng ta có thể thấy trong những năm qua chính sách rất ưu tiên các vùng sản xuất miền núi, hải đảo. Cụ thể, tại hệ thống chúng tôi đến thời điểm này thì sản phẩm của Sơn La, Tuyên Quang, Bắc Giang… tất cả các sản phẩm trong hệ thống của chúng tôi đều có một   sức bật rất tốt và sản lượng tiêu thụ ngày càng lớn lên, đấy là điều chúng tôi nhìn thấy hằng ngày.

Qua chia sẻ, chúng ta biết được đằng sau đó rất nhiều công việc, rất nhiều ưu tiên từ chính sách của Chính phủ đến ưu tiên của địa phương; và rõ ràng chúng ta đã có được những kết quả rất đáng khích lệ trong trong suốt thời gian vừa qua.

MC Phí Linh: Vâng, xin được cảm ơn những chia sẻ từ phía Central Retail. Có thể nói, về phía các doanh nghiệp mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức đều đang làm trên cả nhiệm vụ của mình, đều đang cố gắng hơn những gì mà mình đang làm, và thực ra thì đó cũng là câu chuyện của các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là ở đây ngày hôm nay Bộ Công Thương. Vì sao chúng ta lại tổ chức một chương trình, một diễn đàn như thế này, xây dựng một chương trình hành động trong giai đoạn 5 năm như vậy, thì thực ra chúng ta cũng đang đứng trên vai trò của chính mình để cổ vũ cho các sản phẩm đặc sản của địa phương.

Từ phía một nhà nghiên cứu và tư vấn chính sách, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng để đánh thức được tiềm năng của các vùng đất trên khắp cả nước sẽ cần có sự tham gia như thế nào, không chỉ có Bộ Công Thương mà các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nói chung cần phải kết nối với nhau như thế nào để đạt được hiệu quả cao hơn?

TS. Nguyễn Minh Phong - Nguyên Trưởng Phòng nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội: Xin cảm ơn MC với một câu hỏi, một vấn đề rất hay.

Trong kinh tế thị trường hiện đại có một nét mới, đó là thương mại quyết định sản xuất. Đây là một trong những xu hướng hiện đại của thế giới. Anh nắm ở thị trường thì anh sẽ quyết định được sản xuất, quy mô, cơ cấu, yêu cầu, v.v..

Nhưng ngược lại, có một nguyên llý cũng không bao giờ thay đổi, đó là chất lượng sản phẩm, như ông Phong vừa nói, đó là chất lượng sản phẩm quyết định sự ổn định và sự mở rộng thị trường trong tương lai. Đặc biệt, trong góc độ chúng ta hội nhập mạnh mẽ thì thị trường không chỉ còn là thị trường bản địa nữa, mà là cả thị trường trong nước, thị trường của nước ngoài.

Trên tinh thần đó, cộng hưởng với tinh thần của Quyết định 1162 mà chúng ta đang nói đến, thì phát triển thương mại không chỉ là một dòng sinh khí mới cho vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; mà nó còn phải kết hợp với xây dựng nông thôn mới, kết hợp với đưa Việt Nam thành một cường quốc biển, kết hợp với giảm nghèo bền vững, kết hợp với bảo vệ môi trường, kết hợp với những yếu tố về hội nhập khác,…

Do đó, sự phối hợp đồng bộ về chính sách là rất cần thiết. Quyết định 1162 đã nêu ra yêu cầu cần phải phân công, phân cấp các Bộ, ngành, rất cụ thể. Nhưng tôi muốn lưu ý là các chính sách phải đồng bộ, trên cơ sở phân công chức năng, nhiệm vụ của các Sở, ban, ngành để giao. Nhưng sự đồng bộ này không chỉ là đồng bộ khép kín trong một đơn vị, một Bộ, mà phải sự đồng bộ, phối hợp nhịp nhàng trong một cơ chế được quy định rất rõ giữa các Bộ với nhau, giữa các ngành, kể cả các Hội đồng và Ủy ban của Chính phủ, Quốc hội với các Bộ chức năng để hình thành một chính sách vừa cập nhật, vừa phản ứng chính sách tốt, vừa phù hợp với thực tiễn và đặc biệt là phù hợp với thực tiễn của từng địa bàn cụ thể. Ví dụ miền núi, vùng sâu khác; hải đảo khác; vùng phía Nam khác, phía Bắc khác; nó phải tạo được một sự đồng bộ chính sách.

Thêm nữa, cần phải chú ý đến tính hai mặt của chính sách, bất kỳ chính sách nào cũng có tính hai mặt. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến một mặt, một mục tiêu thì một thời điểm nào đó nó sẽ thay đổi và sẽ làm cho mặt trái tăng lên, yếu tố tích cực sẽ bị giảm đi, gây ra tác động trở lại. Vì thế, việc điều chỉnh là rất cần thiết, để đảm bảo tính đồng bộ, tính hài hòa và tính hai mặt của chính sách.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng cho rằng các chính sách phải tập trung vào để, như Quyết định 1162, là khai thác các điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, nhưng đồng thời phải tăng liên kết vùng, tăng liên kết chuỗi, và đặc biệt là phối hợp giữa các chủ thể tham gia trong chuỗi này, bao gồm cả các hộ nông dân, hợp tác xã, các doanh nghiệp, địa phương, Bộ và thậm chí cả các tổ chức quốc tế khác nữa, nhất là các sàn điện tử, để tạo ra một chuỗi có sự kết nối, có sự phân công phân vai, đảm bảo hình thành được những cách phân phối mới, hiệu ứng hiệu quả phù hợp.

Và cuối cùng, không thể nào thoát ly được thực tiễn. Các chính sách phải đảm bảo hướng mạnh vào hai câu rất quan trọng: hạ tầng cứng cộng với các chính sách mềm.

Hạ tầng cứng là các vấn đề về giao thông, logistics nông nghiệp - đây là một trong điểm yếu nhất của Việt Nam, bao gồm kể cả logistics trên địa bàn, trong nội địa cũng như xuất khẩu đường biển cũng như hàng không.

Thứ hai là phần mềm, bao gồm nhân lực, thông tin, điều kiện, tư vấn, các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật khác như chỉ dẫn địa lý, bảo hộ thương mại,… Đặc biệt, hai yếu tố con người rất quan trọng: đó là con người quản lý - các cơ quan chức năng quản lý, và con người sản xuất kinh doanh, bao gồm kể cả doanh nghiệp, người nông dân, hộ gia đình đều phải có được những sự đào tạo, kết nối để hiểu nhau và làm việc với nhau mới được. Và nếu cùng một mặt bằng, cùng một mục đích phát triển thì sự kết hợp mới tốt hơn. Do vậy tôi cho rằng để phát triển cần sự đồng bộ rất lớn và vai trò tổng chỉ huy rất quan trọng. Ở đây, đó vừa là Quốc hội, Chính phủ, vừa là các Bộ, ngành.

Tôi cũng muốn nói thêm một điểm nữa, liên quan đến sự kết hợp với du lịch. Du lịch thực ra cũng chỉ là một ngành dịch vụ, nhưng nó là một ngành công nghiệp dịch vụ và có tính liên kết rất cao, cũng như thương mại. Hai ngành này kết hợp với nhau sẽ tạo ra một sự bổ sung tuyệt vời.

Đơn giản, ví dụ có một tour đi miền núi, ở homestay, nhưng đến chỉ ngắm cảnh ngắm hoa chụp ảnh thì rất tiếc. Tại sao không bày hàng cho người ta mua, bán hàng đặc sản? Như miến dong của Điện Biên cực kì ngon tại sao không mang về bán ở những vùng như Hà Nội này? Gà sạch, lợn sạch, miến sạch, những hàng sạch như vậy cực kỳ có giá trị. Chúng ta sẽ tổ chức điểm bán đó ngay tại địa phương, cũng như trong các mạng lới siêu thị tại Hà Nội, sẽ tạo ra sự kết hợp giữa du lịch và thương mại.

Còn rất nhiều điều để nói trong thời gian tới, nhưng đây là một trong những điểm kết hợp mới tạo sức mạnh cộng hưởng rất tốt, và các doanh nghiệp cũng như là các địa phương nên khai thác khía cạnh này, quảng bá cho du lịch và cho cả hàng hóa thì chắc chắn sự cộng hưởng sẽ tốt hơn rất nhiều.

bà Nga TTTN

MC Phí Linh: Vâng, xin cảm ơn TS. Nguyễn Minh Phong. Vậy còn phía Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công Thương trong thời gian tới, để thực hiện hiệu quả Chương trình của Quyết định 1162 về giai đoạn 2021 2025 của Thủ tướng Chính phủ thì Vụ sẽ tập trung vào những nhóm giải pháp nào có thể hiện thực hóa được Quyết định này cũng như để phát triển được sản phẩm của miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo?

Bà Lê Việt Nga - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương): Xin cảm ơn tất cả các diễn giả hôm nay đã mang đến cho Vụ Thị trường trong nước góc nhìn thực tế hơn là có gì thuận lợi, có gì khó khăn và có cả những sáng kiến, sáng tạo trong quá trình mình triển khai chương trình phát triển thương mại ở khu vực khó khăn này.

Về góc độ của Vụ Thị trường trong nước chúng tôi thì phải triển khai thực thi tám nhóm giải pháp quan trọng trong Quyết định 1162 của Thủ tướng Chính phủ mới kí năm ngoái.

Qua ý kiến của các diễn giả thì thấy rằng sự sáng tạo trong và linh hoạt trong cách triển khai của doanh nghiệp, của địa phương hết sức quan trọng. Bộ, ngành chúng tôi hàng năm đều có hướng dẫn và kêu gọi các địa phương cũng như các hội, hiệp hội tham gia triển khai các nhóm giải pháp.

Chúng tôi nghĩ rằng thời gian tới sẽ phải có một hướng dẫn cụ thể hơn về tính linh hoạt, sáng tạo ưu tiên cho chuyển đổi số, chẳng hạn ứng dụng những giải pháp về công nghệ số hay là những giải pháp truyền thông mang tính tổng thể hơn và có điểm nhấn hơn, có lượng người tiêu dùng quan tâm hơn đến những sản phẩm của khu vực này sẽ được đánh giá cao và triển khai ở diện rộng.

Chúng tôi cũng thấy các doanh nghiệp có những giải pháp mới, ví dụ như One Mount Group có gói giải pháp về tài chính, về nguồn hàng, đào tạo con người và các cung cấp về trang thiết bị cho các cửa hàng tạp hóa và tiểu thương trong chợ truyền thống sử dụng được hàng hóa thiết yếu để phân phối với giá cạnh tranh, có thể gọi là giải pháp One-shot.

Ví dụ các doanh nghiệp lớn cùng nhau làm được việc đó thì các hệ thống tạp hóa sẽ không bị các doanh nghiệp đưa hàng giả, hàng kém chất lượng mà mang đến người tiêu dùng vì bản thân các hệ thống tạp hóa thì trình độ kiến thức của họ có hạn trong việc phân biệt hàng giả, hàng thật và họ cũng gặp khó khăn trong việc là đàm phán với các nhà cung cấp cho họ hàng hóa với giá cả có cạnh tranh không? Chúng tôi nghĩ rằng với những gói giải pháp rất hay như vậy rất phù hợp cho việc đưa hàng hóa thiết yếu đến với người tiêu dùng ở những địa bàn khó khăn này.

Đấy là về việc đưa hàng hóa đến cho các tổ chức sản xuất, đến người tiêu dùng ở khu vực này thì cần phải có những sáng tạo hơn nữa và sự kết nối giữa vai trò các cơ quan của Trung ương như là Vụ Thị trường trong nước hay là các Vụ, Cục của Bộ, cần vai trò của các Sở Công Thương, chính quyền địa phương trong việc kết thống tổ chức được hệ thống thương mại văn minh, hiện đại và có nguồn gốc xuất xứ bảo vệ được người tiêu dùng. Đấy là điều quan trọng.

Thứ hai là sẽ có những phương thức mới hơn nữa trong việc tiêu thụ hàng hóa, đưa vào các phân phối được tổ chức mà ở đây trong giai đoạn này có một nhấn mạnh đấy là sự liên kết giữa các doanh nghiệp lớn, có thế mạnh của Việt Nam hoặc là doanh nghiệp vốn FDI với các hộ kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ của người địa phương làm chủ. Việc kết nối này như thế nào để có thể hiệu quả mà không ép, không làm khổ các doanh nghiệp của địa phương thì chúng tôi nghĩ việc này Bộ Công Thương cũng cần đẩy mạnh hơn nữa.

Ngoài ra, có một vấn đề rất là quan trọng về hạ tầng thương mại và các dịch vụ đi kèm như: tài chính, các dịch vụ logistics, công nghệ thông tin, nhiều dịch vụ khác... cũng cần sự chung tay của các bộ ngành, rất cần nhiều diễn đàn hoặc hội nghị kết nối như thế này, như TS. Nguyễn Minh Phong có nói trong năm tới cần trọng tâm, trọng điểm đối với phát triển kết hợp du lịch và thương mại cũng là những vấn đề mà chúng tôi sẽ quan tâm.

Nhóm cuối cùng chúng tôi hết sức quan tâm đấy là đào tạo về nhân lực. Trong giai đoạn chống dịch chúng tôi vẫn làm được những dự án, kể cả những dự án hợp tác quốc tế với những đơn vị đào tạo hoàn toàn qua mạng. Chúng tôi đã có đến hơn 90 giảng viên đã được đào tạo cấp quốc tế về kỹ năng bán lẻ, cả online và offline.

Mong rằng thời gian tới những chương trình như thế này sẽ đến được các địa phương mà cũng không tốn kém nhiều khi chúng ta tận dụng được sức mạnh của internet và có thể đào tạo cho đồng bào ở các địa phương vùng sâu, vùng xa biết được cách quảng bá, bán sản phẩm của mình vào các hệ thống.

Mong rằng các hệ thống lớn như: Central Retail, WinMart, Saigon Co.op... sẽ có những chương trình chung tay hỗ trợ cho người dân về sản xuất, kinh doanh ở khu vực khó khăn này tiếp cận với thị trường trong nước và xuất khẩu. Đấy là những nét trọng tâm nhất của chương trình mà Bộ Công Thương nhằm triển khai tám nhóm giải pháp trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra.

MC Phí Linh: Xin được cảm ơn những chia sẻ có thể nó rất là thiết thực của bà Lê Việt Nga. Chúng tôi hiểu được rằng qua những thông tin trong những diễn đàn như này thì điều quan trọng nhất có lẽ không phải là những thông tin mà chúng tôi chia sẻ trong diễn đàn, mà là sự kết nối càng cần phải thắt chặt hơn nữa sau khi Diễn đàn diễn ra. Xin hỏi TS. Nguyễn Minh Phong có chia sẻ gì thêm tới tất cả quý vị đang tham gia Diễn đàn?

TS. Nguyễn Minh Phong - Nguyên Trưởng Phòng nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội: Tôi xin bổ sung thêm ý kiến để ủng hộ quan điểm của chị Lê Việt Nga. Một trong những nguyên lý rất quan trọng mà lần đầu tiên trong Đại hội XIII của Đảng đã nêu ra là chúng ta phải kết hợp không chỉ bàn tay nhà nước mà cả bàn tay thị trường và bàn tay xã hội nữa. Như vậy là một thể chế mới trong quản lý nhà nước chúng ta sẽ là Nhà nước, thị trường và xã hội. Ở đây đã bao gồm cả Hiệp hội, các tổ chức NGO, đặc biệt phải phát triển rất mạnh hay vai trò và trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp.

Với tinh thần ấy, chúng tôi cho rằng sự kết hợp đồng bộ giữa bàn tay nhà nước, bàn tay thị trường và bàn tay xã hội thông qua phát triển trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng để phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhất là những nơi phát triển hơn rất nhiều các nơi khác và lợi nhuận nhiều khi nó không còn là mục tiêu chính của doanh nghiệp nữa mà là sự đóng góp, sự cống hiến vì những khát vọng của đất nước.

MC: Xin trân trọng cảm ơn các diễn giả đã tham gia thảo luận tại Diễn đàn.

Thảo luận 1

Phiên thảo luận 1: Bài học từ thực tiễn

Diễn giả tham dự:

- Bà Nguyễn Thị Thành Thực - Uỷ viên Ban Chấp hành Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam; Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ phần mềm AUTOAGRI

- Bà Trần Tuyết Lan - Giám đốc Công ty Cổ phần Doanh nghiệp xã hội Craft Link

- Bà Thạch Thị Chal Thi - Giám đốc Công ty TNHH Trà Vinh Farm

- Ông Trịnh Khắc Toàn - Giám Đốc Khu vực miền Bắc Amazon Global Selling Việt Nam

MC Phí Linh: Câu hỏi đầu tiên xin được dành cho bà Nguyễn Thị Thành Thực. Với gần 20 năm làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, có lẽ bà là người hiểu rõ hơn ai về những điểm mạnh, điểm yếu của nông sản Việt Nam. Ngày hôm nay không chỉ chúng ta trò chuyện về nông sản và nói chung là các sản phẩm đặc sản Việt Nam mà phần nhiều trong số đó đến từ các khu vực trọng yếu, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo của đất nước Việt Nam.

Làm thế nào để chúng ta nhận diện được những yếu tố nổi bật của sản phẩm đặc sản Việt Nam và làm thế nào để chúng ta đưa được những câu chuyện về đặc điểm nổi trội đó ra được thị trường trong nước và quốc tế?

Bà Thành Thực

Bà Nguyễn Thị Thành Thực - Uỷ viên Ban Chấp hành Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam; Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ phần mềm AUTOAGRI: Xin đính chính là không phải gần 20 năm mà là gần 30 năm. Từ năm 1992 tôi đã tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là từ năm 2015 tôi dành nhiều tâm huyết và thời lượng cho việc thay đổi những cách mình làm truyền thống trước đây để có thể cập nhật được xu hướng của thế giới. Đấy là một cái mốc rất quan trọng khi mà từ 2015 chúng tôi đã có những nghiên cứu và có những báo cáo trực tiếp cho các cơ quan của Chính phủ về vấn đề tình hình nông nghiệp và nông sản Việt Nam, đặc biệt bên cạnh chúng ta là thị trường Trung Quốc rất là lớn.

Trong một hội nghị khác khi được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư hỏi nếu như để phát triển nông nghiệp Việt Nam và tiềm năng làm giàu thì vùng nào mong muốn đầu tư nhất; tôi có nói một câu, cách đây bảy năm thì nông nghiệp của chúng ta chưa được đầu tư nhiều như hiện nay nhưng tôi đã xác định một câu rất chốt mà đến giờ này tôi vẫn thấy đó là con đường đúng, rằng 3 vùng của chúng ta cần hỗ trợ phát triển nhiều nhất đó là Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ.

Nếu như để phát triển trong nông nghiệp đặc sản của Việt Nam thì cơ hội chúng ta cạnh tranh lớn nhất chính là 3 vùng mà chúng ta đang cho đó là các vùng khó khăn bởi giao thông, hạ tầng để các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản phẩm.

Ngược lại, cũng vì những khó khăn như vậy nên vẫn còn rất nhiều tiềm năng. Tiềm năng đầu tiên chúng tôi nhận thấy đó là những ưu việt về thiên nhiên, ví dụ như là chênh lệch nhiệt độ ngày - đêm, những khoáng chất tự nhiên trong các vùng đất đấy; đặc biệt những vùng đất ấy chưa bị ô nhiễm nhiều và bản thân những con người ở những vùng đất ấy còn giữ nhiều kinh nghiệm truyền thống, những kỹ năng khác biệt về thu hái, chế biến món ăn...

Chính những điều ấy tạo nên sự khác biệt, với kinh nghiệm của chúng tôi nhận thấy giá trị lớn nhất trong chuỗi giá trị chính là giá trị thương hiệu và cái yếu tố cốt lõi để xây dựng nên giá trị thương hiệu chính là cái tính khác biệt.

Yếu tố khác biệt là yếu tố vô cùng quan trọng, là nguồn nguyên liệu, chất liệu để chúng ta tạo nên giá trị cho sản phẩm lớn nhất. Vậy tại sao sản phẩm của chúng ta ở những vùng miền núi, hải đảo vẫn chưa có được những thương hiệu tốt hay đem lại lợi ích cho bà con? Bởi vì cơ bản trong giai đoạn hiện nay, chúng ta thấy nếu những doanh nghiệp có kinh nghiệm đầu tư và làm thương hiệu rồi làm thương mại thì hầu hết ở những khu vực kinh tế phát triển.

Việc đầu tư đến những vùng sâu, vùng xa thật sự có mức độ rủi ro và chi phí rất cao bởi vì phụ thuộc vào một số yếu tố. Yếu tố lớn nhất là yếu tố con người; ví dụ như chúng tôi ở Hà Nội không hiểu được tiếng của đồng bào dân tộc ở trên Tây Bắc hay là không hiểu được tiếng đồng bào của dân tộc Êđê thì vấn đề nhân sự làm việc đó rất là khó khăn. Đấy là vấn đề cốt lõi.

Thứ hai, thời gian để đầu tư trong một nhân sự đến địa bàn, tìm hiểu được văn hóa vùng miền và đầu tư cho phần hoàn thiện sản phẩm ở đó thì giá thành sẽ rất cao.

Cho nên để khắc phục vấn đề này thì tôi mong rằng đầu tư của Nhà nước cũng như là của các địa phương đã đạt được mấy yếu tố như này thì chúng ta sẽ có cơ hội rất lớn.

Ở đây chúng ta có đại diện Amazon và đặc biệt là Bộ Công Thương thì chúng ta thấy rằng thương mại điện tử là xu hướng rất lớn và đặc biệt để đảm bảo được thương mại điện tử hiện nay thì khâu quan trọng nhất là cái khâu hoàn thiện và đóng gói sản phẩm tùy theo điều kiện.

Thứ nhất là điều kiện vận chuyển hàng hóa; thứ hai là điều kiện bán hàng của điểm bán. Nếu như với các nước phát triển thì thứ nhất khâu giao nhận rất thuận tiện; thứ hai là điểm bán một sản phẩm mà cần bảo quản trong điều kiện nhiệt độ nhất định thì cơ sở bảo quản rất tốt thì chi phí của sản phẩm và đặc biệt là để bảo đảm được chất lượng của sản phẩm như vậy sẽ là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng.

Với điều kiện bán hàng hiện nay của Việt Nam thì thực sự hệ thống siêu thị dù phát triển rất mạnh nhưng vẫn có những hạn chế nhất định, ví dụ như hệ thống các điểm bên ngoài hay là hệ thống chợ truyền thống hay là các hàng rong, với thói quen tiêu dùng của chúng ta ở những nơi tiêu thụ như vậy vẫn còn rất nhiều cách truyền thống. Ví dụ một trái vải thiều bán ở những xe bán ngoài chợ hay trong siêu thị để bày bán có gió, nhiệt độ lạnh thì sẽ bị thâm vải rất nhanh. Tuy nhiên cũng là trái vải thiều như vậy, với phương pháp đóng gói như vậy, chúng tôi đóng hàng để xuất khẩu đi Trung Quốc đảm bảo được ba ngày ba đêm trong điều kiện bình thường không bị hư hỏng và không bị mất màu; chi phí hư hao của sản phẩm rất thấp.

Một ví dụ khác như sản phẩm cam sành ở Hàm Yên, Tuyên Quang từ tận gốc chuyển đến Hà Nội không xa nhưng có thể chênh lệch đến ba bốn lần giá, bởi vì đặc thù của trái cam đấy có hạt tinh dầu rất to và dễ bị dập dầu thì sẽ bị thối rất nhanh. Vậy thì chúng ta phải đóng như thế nào?

Chúng ta nhìn thấy hình ảnh mà bà con gùi những gùi chứa hàng trăm kg cam trên người đi bộ từ trên dốc xuống, chỉ cần bà con không ngã thôi khi đặt gùi cam xuống nặng một chút cũng có thể bị dập khoảng 20 – 30%; sau đấy vận chuyển về Hà Nội có thể bị thối lên tới 50% số hàng. Như vậy người bán hàng cuối cùng sẽ rủi ro rất lớn.

Để giải quyết những khâu đấy, thứ nhất bây giờ là vấn đề truy xuất nguồn gốc chúng ta không thể không ứng dụng công nghệ thông tin bởi vì nếu không ứng dụng công nghệ thông tin không ai có thể đi đến tận vùng sâu, vùng xa để xác định cái này của nhà ai hay có đúng xuất xứ ở đó hay không.

Công nghệ thông tin là một công cụ, phương tiện giúp chúng ta kết nối giữa người mua - người bán và có thể giúp bảo vệ ngay những người sản xuất ở vùng đó tránh việc đi làm giả hàng hóa.

Thứ nhất là công nghệ thông tin; thứ hai là công nghệ bảo quản chế biến sản phẩm sẽ khắc phục được rất nhiều những hạ tầng chúng ta chưa đầu tư được nhiều.

Chúng ta phải giải quyết vấn đề làm thế nào với hạ tầng giao thông như vậy, vẫn điều kiện bán hàng như vậy mà chúng ta giải quyết được nhưng mà hầu hết nhân lực của chúng ta làm trong lĩnh vực nông nghiệp, nông sản và sản phẩm miền núi, không chỉ ở miền núi mà nói chung ở các vùng nông thôn thì đều là những nhân lực lớn tuổi. Điều cần thay đổi không phải họ không thể hiểu biết về công nghệ thông tin hay chế biến, đóng gói mà việc thay đổi tư duy, nhận thức của nhân lực là một vấn đề vô cùng nan giải.

Trong chiến lược của chúng tôi giai đoạn gần đây, chúng tôi sẽ tập trung vào thế hệ trẻ. Hiện tại với Công ty cổ phần công nghệ phần mềm AUTOAGRI chúng tôi đã có những sản phẩm về công nghệ tiện ích vừa phục vụ cho quản lý vừa phục vụ cho truy xuất nguồn gốc cũng như kết nối thương mại đến các sàn thương mại điện tử. Công ty đã được công nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ và 100% là sản phẩm của Việt Nam, toàn bộ hạ tầng của Việt Nam và được giám sát bởi các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam.

Chúng tôi đã ứng dụng thí điểm cho khoảng 16 tỉnh; trong đó có khu vực vùng sâu, vùng xa như huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang chúng tôi đã số hóa tất cả các sản phẩm OCOP. Đối với Tuyên Quang, chúng tôi đã hỗ trợ cho chương trình bò H’mông, giúp cho bà con xóa đói giảm nghèo và đặc biệt số hóa từng con bò.

Chúng tôi đã vận động thành lập ngân hàng bò cho vay, thường ngày chúng tôi có thể nhìn thấy con bò nào của bà con sinh sản như nào, gặp vấn đề gì, lớn lên như thế nào... Đặc biệt đối với tỉnh Đắk Lắk, chúng tôi đã phối hợp với địa phương tiến hành số hóa 21.000 hộ dân của tỉnh trên nền tảng AUTOAGRI.

Rất mong muốn thông qua Diễn đàn này với những kinh nghiệm chúng tôi đã làm trên thị trường thương trường và những gì đang có thì chúng tôi cũng sẵn sàng tình nguyện cùng với Ủy ban Dân tộc cũng như các địa phương để hỗ trợ cho tất cả đồng bào mang các sản phẩm của vùng sâu, vùng xa có thể bắt kịp không thua kém và có thể còn nhanh hơn với sản phẩm của vùng đồng bằng.

MC Phí Linh: Có thể nói bà Thành Thực là gương mặt rất quen thuộc với các tỉnh trong công tác tư vấn, phát triển các sản phẩm đặc sản của địa phương. Bà cũng nói ba nơi trọng tâm có rất nhiều tiềm năng để phát triển của sản phẩm đặc sản Việt Nam chính là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ thì ngày hôm nay ở trong chương trình của chúng ta có đại diện những người cũng góp phần mang sản phẩm đặc sản của chính những địa phương đến cho thị trường trong nước và quốc tế.

Bà cũng có chia sẻ là ở những địa phương đấy tiềm lực rất lớn nhưng nhà đầu tư thưa thớt. Lý do là bởi nếu như nhà đầu tư ở những thành phố lớn không mạnh dạn mang vốn về những địa phương đấy, cho nên cần rất nhiều sự chủ động từ những nguồn lực địa phương thì trong diễn đàn ngày hôm nay, hai nhân vật khách mời bên cạnh bà là hai ví dụ minh chứng rất rõ ràng.

Chal Thi từ Trà Vinh là một cô gái chủ động khởi nghiệp với sản phẩm đặc sản của địa phương. Chị Lan thành lập Craft Link từ năm 1996 là một cô gái phố nhưng lại mang tình yêu với những sản phẩm đặc sản của vùng Tây Bắc cũng như rất nhiều sản phẩm đặc sản của đồng bào dân tộc trên khắp cả nước giới thiệu đến với các thị trường trong nước.

Xin hỏi chị Lan trước, vì sao gặp nhiều khó khăn như vậy, không phải tính chủ động của mình tại địa phương giới thiệu sản phẩm của địa phương mình mà là chị đi tìm những sản phẩm ở những địa phương còn khó khăn, những sản phẩm không phải nhiều người biết đến ví dụ như chị giới thiệu về họa tiết sáp ong, họa tiết của các đồng bào dân tộc Tây Bắc, đồng bào dân tộc Tây Nguyên, Tây Nam bộ như thế.

Xin hỏi vậy động lực là gì và trong quá trình chị làm có kinh nghiệm gì chị có thể chia sẻ với những nhà đầu tư cũng có thể ở những thành phố lớn khi tìm hiểu, khai thác những sản phẩm đặc sản của các địa phương?

Lan Crafl Link

Bà Trần Tuyết Lan - Giám đốc Công ty Cổ phần Doanh nghiệp xã hội Craft Link: Khi Công ty cổ phần Doanh nghiệp xã hội Craft Link thành lập năm 1996, khi chưa có mô hình doanh nghiệp xã hội, tức là lúc đấy chúng tôi đã đạt được theo tiêu chí doanh nghiệp xã hội nhưng chưa có cơ chế về doanh nghiệp xã hội, cho nên chúng tôi thành lập tổ chức với hai mảng hoạt động, mảng kinh doanh và mảng phát triển.

Thông qua mảng kinh doanh, chúng tôi hỗ trợ rất nhiều cho các nhà sản xuất, rất nhiều hộ dân phát triển sản phẩm và đưa những sản phẩm ra thị trường trong và ngoài nước, hỗ trợ nâng cao năng lực cho họ về thiết kế sản phẩm, phát triển sản phẩm có thể bán được ra thị trường.

Tất nhiên dựa vào năng lực của chính bản thân họ và nâng lên tầm cao mới để giúp họ sử dụng chính các kỹ thuật truyền thống và các công nghệ đơn giản của họ trong việc sản xuất thủ công nâng lên tầm cao mới, đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với yêu cầu thị trường.

Bạn có hỏi động lực gì để chúng tôi tiến hành các hoạt động đấy và đến với những vùng sâu, vùng xa như vậy. Trong quá trình nền kinh tế bắt đầu phát triển và thay đổi có rất nhiều nhóm sản xuất tiến kịp với biến đổi của thị trường và phát triển rất tốt, trong khi đó đối tượng gặp khó khăn nhất chính những đối tượng ở vùng sâu, vùng xa cũng là những đối tượng mà Crafl Link hướng tới. Bởi vì thứ nhất họ ở xa, thứ hai họ không có thông tin chia sẻ để cập nhật như các thành phố lớn và thứ ba họ cũng không có điều kiện năng lực, kể cả về việc bản thân họ ở vùng sâu, vùng xa hạn chế về trình độ văn hóa do việc đi học cũng rất khó khăn.

Với những hạn chế đấy thì đó là đối tượng khó khăn nhất và hầu như không có khả năng tự đưa những sản phẩm của mình ra thị trường. Nhận thấy điều đấy, từ năm 1996 chúng tôi có ý tưởng triển khai các dự án kết nối hỗ trợ các nhóm sản xuất, tuy nhiên sau đó phát sinh vấn đề việc phát triển tiếp tục sau khi dự án hỗ trợ kết thúc như thế nào. Do vậy chúng tôi quyết định thực hiện công việc này nhằm giúp cho họ tiếp tục phát triển và nâng cao năng lực liên tục, giúp họ đứng được trên thị trường.

Trong 26 năm qua, chúng tôi cũng có nhiều hoạt động hỗ trợ cho các nhóm, từ hỗ trợ kinh doanh bán lẻ, bán sỉ và xuất khẩu. Chúng tôi đã hỗ trợ cho các nhóm xuất khẩu sản phẩm sang một số thị trường Châu Úc, Châu Âu...

Đối với những dự án hỗ trợ các nhóm sản xuất tại địa phương có thể kéo dài từ 1 - 3 năm tùy thuộc tình hình thực tế và năng lực của mỗi nhóm sản xuất, cán bộ của Craft Link thường ăn, ở 3 cùng với họ để trực tiếp hướng dẫn, tập huấn cho họ các kiến thức, kỹ năng sản xuất, bán hàng...

MC Phí Linh: Xin hỏi bà Thạch Thị Chal Thi - Giám đốc Công ty TNHH Trà Vinh Farm. Trước hết, xin được chia sẻ với quý vị Chal Thi - cô gái Khmer là một trong sáu cá nhân được vinh danh tại chương trình Vinh quang Việt Nam vào tháng 9/2022 vừa qua, vì thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cụ thể thì việc làm của Chal Thi là đưa mật hoa dừa Sokfarm trở thành một sản phẩm rất được yêu thích trên thị trường, một sản phẩm khởi nghiệp của Chal Thi. Trong phóng sự vừa rồi của Bộ Công Thương, nếu quý vị theo dõi kỹ thì có đoạn anh nông dân lấy mật dừa từ cây dừa và đấy chính là sản phẩm mà Chal Thi khởi nghiệp. Không biết khi mà nghe hai chị ngồi đây chia sẻ về việc phát triển các sản phẩm đặc sản của Việt Nam từ các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo thì có truyền cảm hứng như thế nào cho Chal Thi và Chal Thi có thể chia sẻ câu chuyện của mình đến tất cả các vị khách quý đang có mặt ở đây?

Thạch Thị Chal Thi

Bà Thạch Thị Chal Thi - Giám đốc Công ty TNHH Trà Vinh Farm: Nếu nói làm doanh nghiệp vì sự phát triển của cộng đồng rất khó, Chal Thi rất là hạnh phúc khi Sokfarm ra đời và đang tiếp tục trên con đường này vì sự phát triển của cộng đồng.

Thực ra việc Chal Thi là founder của Sokfarm tại Trà Vinh hay cơ duyên đến với ngành mật hoa dừa thì Chal Thi hay nói vui là thần dừa chọn. Năm 2018 dừa ở Trà Vinh có những lúc là bỏ một phần không có ai mua trong khi đó Trà Vinh lại là vùng dừa lớn thứ hai của Việt Nam và trong những vườn dừa bỏ một phần có vườn của ba mẹ Chal Thi và những người dân làng xung quanh. Là người tốt nghiệp thạc sỹ ngành Công nghệ thực phẩm ở Đại học Bách khoa, lúc đó Chal Thi suy nghĩ phải tìm một hướng đi mới cho cây dừa, phải đưa chế biến sâu vào. Vì dừa ở Trà Vinh, nếu thương lái Trung Quốc hoặc Bến Tre không thu mua thì chắc chắn bài toán bỏ một phần sẽ diễn ra theo chu kỳ. Khi đó Chal Thi mới nghiên cứu về ngành mật hoa của thế giới và trùng hợp là ngành mật hoa dừa cũng là ngành truyền thống của người Khmer tại Trà Vinh đã bị mai một cách đây hơn 100 năm.

Nghiên cứu trên đánh giá, ngành mật hoa dừa đem lại giá trị gia tăng cho người nông dân trồng dừa gấp 3-5 lần thì Chal Thi thấy rằng phải nghiên cứu thành công dự án mật hoa dừa; khi mình làm thành công ngành này đưa ra thị trường, thị trường chấp nhận thì những người nông dân quê mình họ sẽ được hưởng lợi, sẽ cải thiện kế sinh nhai cho người nông dân. Do đó Chal Thi quyết tâm mình làm, bắt đầu từ năm 2018 tới bây giờ, những người nông dân quê tôi rất vui, họ bảo “tôi thoát nghèo bền vững rồi”, bởi những người đó đa số lúc xưa là hộ nghèo và cận nghèo.

Chal Thi mong muốn làm tốt, làm lớn hơn để liên kết được nhiều nông hộ và Sokfarm cũng đặt mục tiêu vào năm 2030 sẽ liên kết được ít nhất 1000 nông hộ trở lên, tạo được việc làm cho hơn 300 dân làng nhờ vào nhà máy sản xuất mật hoa dừa tại Trà Vinh.

MC Phí Linh: Xin hỏi bây giờ quy mô của Sokfarm như thế nào rồi ạ? Các sản phẩm chúng ta có để đem ra thị trường là gì ạ?

Bà Thạch Thị Chal Thi - Giám đốc Công ty TNHH Trà Vinh Farm: Tất cả sản phẩm của Sokfarm hiện tại có 6 sản phẩm từ mật hoa dừa, trong đó có sản phẩm chính là nước uống mật hoa dừa và mật hoa dừa cô đặc đã xuất khẩu chứng nhận đi Nhật. Tới 20/10 tới Công ty sẽ ra mắt sản phẩm thứ tư từ mật hoa dừa dự báo là sản phẩm ngôi sao của Sokfarm sẽ xuất khẩu rất mạnh.

Về tốc độ tăng trưởng, thực ra khi chúng tôi bắt đầu đưa ra sản phẩm năm 2019 thì không có người dân Việt Nam nào biết mật hoa dừa là gì. Chúng tôi xây dựng cả một nhà máy, nhưng phải cầm chai sản phẩm đi bán, mỗi năm tăng trưởng 2-3% nhờ vào mô hình quảng bá của mình và nhờ vào nhu cầu thị trường.

Trước khi làm, chúng tôi sẽ nghiên cứu xem thế giới đánh giá ngành mật hoa dừa là ngành có nhu cầu tiêu dùng bền vững, người tiêu dùng càng ngày càng tìm kiếm chất ngọt giống như mật hoa dừa ngọt tự nhiên để thay chế độ đường tinh luyện, nhờ vào đi đúng xu hướng tiêu dùng của thế giới nên đến nay tăng trưởng Công ty khoảng 200% mỗi năm.

MC Phí Linh: Câu chuyện ở đây rõ ràng là chúng ta có thể rút ra được một số từ khóa. Có lẽ không phải là chúng ta chỉ bán những thứ chúng ta có mà phải bán những thứ mọi người cần. Có lẽ bây giờ câu chuyện phải là chúng ta làm những thứ chúng ta có với một mô hình chuyên nghiệp giống như cách mà mọi người cần, đấy là cách mà chúng ta đang tiếp cận để đưa sản phẩm đặc sản của chúng ta ra thị trường trong nước và quốc tế.

Để con đường đó có thể khớp nối được trở thành một chuỗi giá trị vừa bền vững, vừa phát triển một cách chuyên nghiệp thì phải có Amazon Global Selling. Xin hỏi ông Trịnh Khắc Toàn, làm thế nào để chúng ta có thể đẩy mạnh được tất cả những giá trị vượt trội của sản phẩm đặc sản Việt Nam ở những nhà cung cấp như thế này với tư cách là một đại diện của một tổ chức thương mại toàn cầu, nhưng cũng là một người con Việt Nam yêu quê hương mình?

Toàn Trịnh Amazon

Ông Trịnh Khắc Toàn - Giám đốc Khu vực miền Bắc Amazon Global Selling Việt Nam:

Qua chia sẻ của các khách mời, tôi thấy được trách nhiệm làm sao để mọi người nhận thấy một cơ hội có thể xuất khẩu hàng hóa, những đặc sản của Việt Nam xuyên biên giới thông qua nền tảng Amazon.

Hơn nữa qua câu chuyện của mọi người, tôi có một cảm nhận việc xuất khẩu nông sản để đưa được những đặc sản Việt Nam ra thế giới, xây dựng thương hiệu quốc tế thực sự không phải là câu chuyện đơn giản. Chúng ta cần những con người mà những các chị chia sẻ của chúng ta cùng ăn, cùng ở với người nông dân, với các nhà sản xuất để làm sao có thể hướng dẫn cho họ những cách làm, giúp họ xây dựng những thương hiệu, thu mua những sản phẩm, quảng bá những sản phẩm thương hiệu của đặc sản Việt Nam mang ra thế giới…

Amazon Global Selling là một chương trình do Tập đoàn Amazon chính thức thành lập ở Việt Nam vào năm 2019 thì qua 03 năm vừa rồi, đội ngũ Amazon Global Selling đã sát cánh cùng với rất nhiều doanh nghiệp, các nhà sản xuất, những chủ thơng nghiệp, những nhà bán hàng cá nhân ở Việt Nam trong công cuộc đưa những sản phẩm “Made in Việt Nam” ra quốc tế.

Quan trọng hơn, chúng ta không phải là chỉ xuất khẩu mà còn hỗ trợ cho những nhà sản xuất, những người nông dân, những chủ thương hiệu của Việt Nam có thể xây dựng được những thương hiệu không những chỉ xuất khẩu sản phẩm mà mình có thể làm chủ thương hiệu, chủ gian hàng, làm chủ việc vận hành một ngành hàng kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử Amazon.

Thông qua quá trình làm việc với rất nhiều doanh nghiệp và cá nhân bán hàng, tôi có rút ra một kết luận đấy là Việt Nam có rất nhiều những sản phẩm có sự khác biệt, thân thiện với môi trường, những sản phẩm không nước nào có được, đấy là chất liệu chúng ta có thể xây dựng những câu chuyện liên quan đến thương hiệu, có thể chia sẻ và đấy cũng là một điểm mạnh.

Bởi vì xu hướng của những người tiêu dùng trên toàn cầu, đặc biệt thị trường lớn như là Mỹ, châu Âu, châu Úc người tiêu dùng đang hướng đến những sản phẩm có giá trị thân thiện môi trường, thân thiện với sức khỏe, những sản phẩm không biến đổi gen, những sản phẩm đến từ những đất nước đem lại trải nghiệm mới cho họ. Đó là lợi thế của sản phẩm Việt Nam.

Trong thời gian vừa rồi, chúng ta có xem đoạn video ở đầu chương trình có rất nhiều những doanh nghiệp, thương hiệu đã đưa được sản phẩm nông sản Việt Nam thành công, sản phẩm thủ công mỹ nghệ thành công lên trên sàn Amazon.

Tiêu biểu như câu chuyện của rong nho Trường Thọ, từ một sản phẩm rất đặc thù ở Việt Nam trở thành sản phẩm top bán chạy của Amazon toàn cầu và được đưa vào danh sách Amazon lựa chọn dành cho thị trường Mỹ. Đấy cũng là một điểm đội ngũ Amazon Global Selling cảm thấy rất tự hào, có thể sát cánh cùng với chủ thương hiệu rong nho Trường Thọ đưa được những sản phẩm của Việt Nam vươn ra tầm quốc tế, khẳng định được về thị trường trên sàn thương mại có tính cạnh tranh toàn cầu như Amazon.

Kết luận thứ hai của Amazon là đôi khi trở ngại lớn nhất đối với doanh nghiệp Việt Nam trong việc đưa những sản phẩm nông sản, những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, những sản phẩm của Việt Nam nói chung trong đó có những sản phẩm từ miền núi, vùng sâu, vùng xa ra thị trường chính là vấn đề liên quan đến tâm lý cũng như kiến thức.

Thông thường trước cơ hội bán hàng qua Amazon chúng ta sẽ cảm thấy thiếu những kiến thức liên quan đến thương mại điện tử xuyên biên giới. Thứ hai là tâm lý lo ngại không biết những sản phẩm của chúng ta có cạnh tranh được không, cần phải cải tiến những gì để có thể thành công được?...

Đội ngũ Amazon Global Selling ở  Việt Nam chính là để đem đến cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam cũng như những người bán hàng tại Việt Nam có nhu cầu xuất khẩu biên giới với 3 yếu tố chính:

Thứ nhất, mở ra cơ hội cho sản phẩm Việt Nam có thể vươn đến hơn 300 triệu khách hàng trên toàn cầu và tiếp cận trên 200 vùng lãnh thổ trên toàn thế giới thông qua nền tảng Amazon.

Thứ hai là Amazon đưa ra một cái giải pháp về hậu cần và hoàn thiện đơn hàng quốc tế với tên gọi FBA - Dịch vụ hoàn thiện đơn hàng bởi Amazon (Fulfillment by Amazon). Quý vị anh chị hình dung đơn giản thay vì chúng ta phải vận chuyển hoàn thiện đơn hàng để ra tay phải bán để chúng ta có thể đưa hàng hóa vào kho Amazon và toàn bộ những khâu từ đóng gói, giao hàng, chăm sóc khách hàng là thu tiền, thu đổi sản phẩm do Amazon hỗ trợ.

Nếu nói cách dễ nhất để chúng ta có thể vươn lên một tầm cao mới là đứng trên vai những người khổng lồ thì hiện tại Amazon có một hệ thống hoàn thiện đơn hàng lên đến 400 trung tâm hoàn thiện đơn hàng trên toàn cầu, với khả năng có thể tiếp cận đến 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đấy chính là một hướng đi, một câu hỏi tôi luôn luôn đặt ra với các doanh nghiệp Việt Nam. Tại sao chúng ta lại không tận dụng nguồn lực mà Amazon đã đầu tư không đổi như vậy để chúng ta có thể tiến ra toàn cầu thay vì để chúng ta phải tự đầu tư?

Điểm thứ ba cũng rất là quan trọng đối với cả đội ngũ Amazon là chúng ta phải đưa ra được những kiến thức để hỗ trợ cho các nhà bán hàng, những doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng công cụ của Amazon để có thể trực tiếp xây dựng được thương hiệu của mình và vận hành những hoạt động bán hàng của mình thành công thông qua chính nền tảng của Amazon.

Câu chuyện thương mại điện tử, thương mại xuyên biên giới có thể tương đối xa vời đúng đối với cả tất cả bà con nông dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo nhưng mà nó sẽ trở thành một câu chuyện khá dễ dàng với những doanh nghiệp hiện tại đang hỗ trợ sản phẩm nông nghiệp Việt Nam vươn ra quốc tế.

Từ thảo luận tại Diễn đàn khiến tôi nhận thấy một nhiệm vụ cá nhân làm thế nào để hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp như Crafl Link, Trà Vinh Farm… có thể đưa những sản phẩm lên trên sàn Amazon bởi vì tôi nghĩ rằng việc chúng ta hỗ trợ được những doanh nghiệp làm cầu nối cho tất cả bà con nông dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo là cách tốt nhất, nhanh nhất để Amazon có thể hỗ trợ được cho sản phẩm Việt vươn ra thị trường quốc tế.

MC Phí Linh
MC Phí Linh

MC Phí Linh: Xin hỏi bà Thành Thực có muốn chia sẻ thêm điều gì với tất cả các vị khách quý tại đây?

Bà Nguyễn Thị Thành Thực - Uỷ viên Ban Chấp hành Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam; Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ phần mềm AUTOAGRI: Có một kinh nghiệm như này chúng tôi đang phát triển tại các địa phương và  cũng muốn chia sẻ với các lãnh đạo của Bộ cũng như các địa phương, cùng các anh chị. Chúng ta cũng nói rất nhiều những câu như: “muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau”, nhưng đi một mình thì đi như thế nào và đi với nhau thì đi với ai, hay nói là chúng ta nên dựa vào vai người khổng lồ nhưng người khổng lồ đấy là ai? nếu mà ta mà dựa nhầm đối tượng có khi cũng rất là nguy hiểm. Cho nên tôi nói sâu về các sản phẩm của địa phương và với những hộ gia đình kinh doanh cũng như những bạn khởi nghiệp, những doanh nghiệp vừa và nhỏ ở vùng sâu, vùng xa.

Hiện nay sau khi có kinh nghiệm làm thương mại mấy chục năm, đặc biệt với thị trường Trung Quốc, tôi đã thử nghiệm và khởi động tại 4 tỉnh; đầu tiên chúng tôi thành lập một hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp số ở tỉnh Bình Phước. Mô hình này có thể nói là ưu việt nhất và lý tưởng nhất đối với sản xuất nhỏ ở Việt Nam, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Bởi vì là nếu như các bạn trẻ bây giờ nói rằng tôi có tinh thần làm việc nhóm, tôi có thể làm việc cộng đồng thì các bạn hãy chứng minh cho tôi rằng bạn tham gia vào một hợp tác xã và bạn hỗ trợ hợp tác xã đó thành công. Bởi vì mô hình hợp tác xã đó là mô hình đối nhân không đối vốn và đòi hỏi mức độ quản lý của nó cũng như một doanh nghiệp cổ phần, có khi còn khó hơn doanh nghiệp cổ phần.

Doanh nghiệp cổ phần là một người có thể chi phối đến đại đa số và có quyền quyết định hết, nhưng đối với một hợp tác xã chúng tôi có thể nói tối đa một cá nhân chỉ có thể sở hữu đến 20% thôi.

Yếu tố thứ hai có thể chia sẻ mà tôi vô cùng tâm huyết, nói ra thì có vẻ sẽ đi ngược với lợi ích của các doanh nghiệp giống như doanh nghiệp chúng tôi, nhưng tôi đến đây chia sẻ vì tinh thần cộng đồng, tôi sẽ nói điều mà mà tôi phân tích việc lập hợp tác xã, đó chính là tất cả những kinh phí, ngân sách, tài sản nhà nước hỗ trợ cho hợp tác xã sẽ hình thành tài sản không chia.

Đấy là yếu tố mà nếu đứng dưới góc độ bảo tồn tài sản của nhà nước cho chính cộng đồng tại địa phương đó được hiệu quả thì chính là việc ưu tiên hỗ trợ cho hợp tác xã.

Ví dụ như công ty chúng tôi tham gia vào các hợp tác xã để chúng tôi có thể được hưởng lợi từ đó, tài sản không chia đó như đất đai cần cho sản xuất, cho xây dựng các nhà máy. Nếu như địa phương ưu tiên hỗ trợ hợp tác xã thì doanh nghiệp muốn về đó, anh hãy cùng với người địa phương thành lập hợp tác xã và nếu như hợp tác xã đó hoạt động không hiệu quả thì tài sản đó được ngay địa phương đó, huyện đó quản lý và đưa cho các doanh nghiệp khác hoặc đưa vào hoạt động của cộng đồng. Còn nếu như chúng ta hỗ trợ cho doanh nghiệp sẽ chỉ hình thành tài sản doanh nghiệp.

Điều tôi mong muốn nhất, với các địa phương kinh tế khó khăn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa chúng ta hãy hỗ trợ cho các mô hình hợp tác xã và mô hình hợp tác xã hoàn toàn có thể có nhiều người địa phương khác tham gia. Ví dụ bây giờ ở Bình Phước chúng tôi có doanh nghiệp, tôi ở Hà Nội, một bạn ở Thái Bình, một bạn ở Bến Tre, một bạn ở Tiền Giang... chúng tôi cùng nhau tham gia vào hợp tác xã Bình Phước để trong bản thân hợp tác xã đấy đã có những doanh nghiệp có thể hỗ trợ nhau từ sản xuất đến thu mua, chế biến và đầu vào.

Đấy là một mô hình mà sau khi chúng tôi thành lập được từ tháng 4 đến nay thì hiện nay tỉnh Đắk Lắk chúng tôi cũng đang kết nối, đặc biệt chúng tôi ưu tiên các bạn trẻ làm lãnh đạo. Đấy là lực lượng kế cận cho nông nghiệp Việt Nam, các bạn trẻ mà làm lãnh đạo trong các hợp tác xã đấy, tiêu chí của chúng tôi ít nhất phải giao tiếp được một ngoại ngữ, thứ hai phải rành công nghệ thông tin và chúng tôi hậu thuẫn cho các bạn người bản địa đứng lên làm giám đốc để các bạn có trách nhiệm với cộng đồng. Hiện nay, các tỉnh Đắk Lắk, Đăk Nông, Gia Lai, Thái Bình và Nam Định đều mong muốn chúng tôi chia sẻ mô hình đấy.

Đối với Amazon, sự chia sẻ, hậu thuẫn, hỗ trợ của những sàn thương mại điện tử như Amazon đối với Việt Nam, tôi cảm thấy những kiến thức vô cùng quý giá. Tuy nhiên, một người làm một sản phẩm, một gian hàng thì vấn đề chi phí lớn nhất đó là nhân lực. Nếu một người có năng lực bán hàng và quản trị gian hàng trên Amazon thì chắc chắn một là lương cao, hai là các bạn có sự lựa chọn cho mình nhiều hơn là việc đi làm từ những sản phẩm nhỏ của địa phương.

Cho nên tôi mong muốn rằng nếu như Amazon có thể hỗ trợ kết hợp với các địa phương xây dựng mô hình hợp tác sản dịch vụ nông nghiệp số ứng dụng công nghệ số và phù hợp với Chương trình chuyển đổi số quốc gia. Các bạn có thể làm truy xuất nguồn gốc, có thể làm nhật ký điện tử từ vùng sản xuất và từ địa phương cho đến việc các bạn kết nối nhật kí điện tử đấy bán trên Amazon. Đối tác ở bất cứ nơi nào trên thế giới có thể thông qua nhật ký đấy, nhìn thấy được công việc tại địa điểm, thời gian mà các bạn cập nhật lên nhật ký.

Một hợp tác xã ở địa phương như vậy có thể xây dựng một gian hàng trước mắt cho tỉnh, một gian hàng đấy hoàn toàn có thể bán hàng trăm, hàng nghìn sản phẩm và chi phí nhân sự, mọi thứ sẽ rất thấp.

Đặc biệt khi chúng ta thành lập hợp tác xã như vậy sẽ hỗ trợ được con em của đồng bào đang học tập ở các nơi, kể cả ở nước ngoài hay ở các thành phố lớn có thể cập nhật được kiến thức và đồng hành cùng với các bạn, đồng thời giúp hậu thuẫn cho các sản phẩm của địa phương.

Nhân diễn đàn hôm nay, khi mà chúng tôi đang đồng hành với các địa phương, các tỉnh như vậy cũng mong sẽ có sự kết nối với Amazon và biến ý tưởng của chúng tôi đang thực hiện trở thành sự hiện hữu cho các địa phương, có thể giúp được nhiều sản phẩm của địa phương lên sàn Amazon cũng như đến với thế giới nhanh hơn.

ông Y Thông

Ông Y Thông – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc phát biểu, đánh giá cao Bộ Công Thương đã kịp thời lên kế hoạch, tổ chức chuỗi các hoạt động, sự kiện triển khai Quyết định 1162/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025.

Những năm qua, Bộ Công Thương đã chủ động phối hợp với các cơ quan thuộc Chính phủ, các địa phương triển khai thành công Quyết định số 964/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2015 - 2020.

Theo ông Y Thông, 5 năm gần đây chúng ta đã chứng kiến khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo từng bước thay đổi, nhất là hạ tầng kinh tế - xã hội đã được đầu tư đáng kể. Sản xuất một số vùng đã có bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên từng bước, tỷ lệ hộ nghèo các vùng khó khăn đã giảm, giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội đều có chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội. Không chỉ phát triển thương mại, Bộ Công Thương còn thực hiện nhiều Chương trình hỗ trợ cho các hoạt động khuyến công, xúc tiến thương mại, thương mại điện tử,… tại khu vực này.

Báo cáo tình hình “Kết nối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo” do Bộ Công Thương trình bày cho thấy, đây là kế hoạch tổng thể, công phu, thể hiện quyết tâm và bước đi phù hợp, với tinh thần phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, ủy ban, các địa phương, doanh nghiệp, nhằm tạo sự thống nhất, đồng thuận của cả hệ thống chính trị trong thực hiện Quyết định 1162/QĐ-TTg trong thời gian tới.

Ông Y Thông cho biết, Ủy ban Dân tộc là cơ quan thuộc Chính phủ. Với chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc trong phạm vi cả nước, những năm qua, Ủy ban đã tham mưu, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các chính sách dân tộc, chính sách đặc thù, các chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ giảm nghèo ở các xã, thôn, bản vùng dân tộc thiểu số và miền núi; các chính sách đầu tư, hỗ trợ ổn định cuộc sống cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Gần đây nhất là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg, ngày 14 tháng 10 năm 2021 (sau đây gọi tắt là Chương trình MTQG 1719).

Chương trình MTQG 1719 gồm 10 dự án thành phần được xây dựng trên cơ sở rà soát, sửa đổi, bổ sung, tích hợp nhiều chính sách, chương trình, dự án; tập trung thống nhất các nguồn lực; phân công rõ cơ quan, đầu mối chủ trì, chịu trách nhiệm chính tham mưu cho Chính phủ trong việc quản lý, chỉ đạo; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành trong triển khai thực hiện. Nhờ vậy, đến năm 2021, đã có 48 chính sách dân tộc còn hiệu lực được tiếp tục thực hiện, 27 chính sách được tích hợp vào Chương trình.

Hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và tập trung thực hiện các dự án theo thứ tự ưu tiên đến năm 2025 theo Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội, chúng tôi tiếp tục phối hợp cùng các bộ, ngành, địa phương, để triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định 1719/QĐ-TTg.

Đại diện Lãnh đạo Ủy ban Dân tộc tin tưởng rằng, việc đồng hành cùng với Bộ Công Thương trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển thương mại, kết nối sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo cũng chính là thêm một bước, thêm một cách thức lan tỏa sâu rộng Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.

Ông Toàn - PCT.Điện Biên

Tham luận tại Diễn đàn, ông Phạm Đức Toàn - Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Điện Biên, cho biết: Việc tổ chức Diễn đàn để kết nối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản cho khu vực biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa là một vấn đề rất cần thiết đối với khu vực khó khăn nói chung và đối với tỉnh Điện Biên nói riêng.

Điện Biên là một tỉnh đặc biệt khó khăn, diện tích rất rộng, dân cư thưa, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo hiện tại còn chiếm hơn 40%. Vậy nên tỉnh xác định là nếu như không để cho nhân dân, nhất là nông dân, tham gia vào các chuỗi sản xuất và cung ứng cho thị trường hàng hóa, trước mắt là trong nước thì mục tiêu xóa đói giảm nghèo của tỉnh Điện Biên nói riêng và khu vực khó khăn nói chung chắc chắn sẽ không bao giờ thực hiện được, cho nên đây cũng là một vấn đề mà cấp ủy, chính quyền địa phương rất quan tâm.

Về tiềm năng, theo ông Toàn, đối với nông sản, khu vực miền núi có rất nhiều nông sản hàng hóa mà ở các thị trường lớn rất thích. Tại Điện Biên có sản phẩm gạo của Điện Biên hiện nay cũng khá nổi tiếng ở thị trường trong nước; những sản phẩm nông sản như là dưa của đồng bào mà ở địa phương gọi là “dưa mèo” khi đưa về thị trường thì cũng được tiếp nhận rất tích cực; hay các sản phẩm nông sản như bí xanh, lạc, cà phê, chè,…

Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp cung ứng đặt vấn đề về tiêu thụ sản phẩm, ký hợp đồng để bao tiêu sản phẩm với khối lượng ổn định hàng tháng lên tới vài chục tấn thì thường không có, không thể đáp được. Bởi đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa thì vẫn sản xuất theo phương thức tự cung tự cấp, khi nhà dùng không hết thì mang ra bán, nên tính ổn định không cao. Hơn nữa, nông sản lại có tính chất mùa vụ, nên khi vào vụ thu hoạch có thể rất nhiều nhưng khi kết thúc vụ thu hoạch thì lại không có sản phẩm để bán nữa.

Trong khi đó chuỗi không ngừng ở các thị trường lớn thì đòi hỏi phải có một nguồn hàng đảm bảo về số lượng, đảm bảo về phẩm cấp, về chất lượng. Vậy nên, đến hiện tại, khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa như Điện Biên hầu chưa tham gia vào các chuỗi cung ứng của các sản phẩm nông sản ở các thị trường lớn, đặc biệt như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.

Về phía tỉnh Điện Biên, ông Toàn cho biết Tỉnh đang tập trung đầu tư phát triển các sản phẩm nông lâm sản. Tỉnh đã xác định khó khăn ban đầu là nếu như không có sự tham gia của các doanh nghiệp ngay từ khâu hỗ trợ cho nông dân trong tổ chức sản xuất để có một khối lượng sản phẩm hàng hóa đủ lớn, có phẩm cấp, đáp ứng được yêu cầu, để người dân có thể bán cái gì mà thị trường cần, chứ không phải là bán cái gì mà mình có, thì mới thực hiện được mục tiêu mà các tỉnh khó khăn, trong đó có Điện Biên, đã đề ra.

Trong thời gian tới, Điện Biên có rất nhiều tiềm năng liên quan đến các sản phẩm như mắc ca hiện nay đã trồng được trên 6.000ha, cà phê có trên 4.000ha là cà phê arabica, rất ngon nhưng hầu hết chưa được chế biến sâu, chỉ là các hộ gia đình, cá nhân trồng và gom nhau vào sản xuất, công nghệ để chế biến thì hầu như chưa có gì, vậy nên giá trị gia tăng tạo ra cho người dân trong quá trình tham gia cung ứng sản phẩm ra thị trường vẫn còn rất thấp.

Hay với sản phẩm miến dong, trên địa bàn tỉnh Điện Biên hiện có vùng trồng khoảng hơn 2.000ha. Sản phẩm miến dong của Điện Biên cũng là một trong những sản phẩm chế biến nguyên sơ, rất tốt, bên cạnh những sản phẩm đã được khẳng định ưu thế tại thị trường trong nước như gạo, cao su,… có các Tổng Công ty đã đầu tư thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ tốt hơn bởi tiềm năng của Điện Biên còn rất lớn.

Về những đề xuất, thứ nhất, ông Phạm Đức Toàn đề nghị Bộ Công Thương đề xuất với Chính phủ có hỗ trợ nhiều hơn nữa cho đồng bào, cho các doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi sản xuất và cung ứng nông sản cho các tỉnh đặc biệt khó khăn, đặc biệt là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.

Thứ hai, đề nghị các doanh nghiệp, các nhà sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông lâm sản vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa, trực tiếp tham gia liên kết đối với người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa trong khâu từ sản xuất, xây dựng chứng nhận xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý,… để sau đó đưa các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào để vẫn là sản xuất nông sản theo mùa vụ nhưng có thể sản xuất được nhiều vụ trong năm, thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu ổn định, bền vững của thị trường.

Như vậy thì nông dân miền núi, vùng sâu, vùng xa mới có cơ hội để tham gia vào các chuỗi cung ứng sản phẩm ở thị trường trong nước. Và như vậy thì chủ trương của Đảng và Nhà nước về khuyến khích phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản cho bà con miền núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa mới có sẽ trở thành hiện thực, và cũng sẽ góp phần rất tích cực cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương của các tỉnh miền núi khó khăn nói chung và Điện Biên nói riêng hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo bền vững, ổn định cho đồng bào nhân dân các dân tộc.

Ông Phạm Đức Toàn cũng bày tỏ mong muốn các nhà sản xuất sẽ đến Điện Biên để tìm hiểu cơ hội, để làm thế nào đưa những sản phẩm lợi thế, như Điện Biên hiện có 44 sản phẩm OCOP đã được chứng nhận đạt chuẩn 3 đến 4 sao, để làm thế nào sản xuất ra khối lượng sản phẩm hàng hóa nhiều hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, để những người dân khó khăn ở Điện Biên cũng như ở các tỉnh đặc biệt khó khăn trên toàn quốc có thể tham gia đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, xóa đói giảm nghèo tự thân cho chính đồng bào nhân dân các dân tộc.

chị Nga - TTTN

Bà Lê Việt Nga - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) báo cáo về tình hình hỗ trợ kết nối tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, cho biết: Trong bối cảnh đất nước đổi mới và ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm lớn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung, khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo nói riêng, là những khu vực có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế các vùng đặc biệt khó khăn, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành và địa phương đã triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách về phát triển các vùng khó khăn theo phạm vi quản lý Nhà nước được giao. Các chính sách này bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực về sản xuất, phân phối và tiêu dùng trên các địa bàn còn nhiều khó khăn. Trong đó, không thể không kể đến sự đóng góp của Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2015-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 964/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2015. Đây là chương trình đặc thù, hết sức cần thiết nhằm xây dựng và phát triển hệ thống phân phối sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, thu hẹp khoảng cách về phát triển thương mại của khu vực này với các vùng miền khác, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập của người dân, đảm bảo an ninh quốc phòng tại khu vực này.

Việc thực hiện Chương trình trong 05 năm đã đem lại những kết quả khả quan về mức tăng trưởng hàng năm về giá trị của tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên các địa bàn còn nhiều khó khăn. Thúc đẩy phát triển các sản phẩm, hàng hóa có thương hiệu là đặc trưng, đặc sản, tiềm năng, lợi thế của miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa và hải đảo để đưa vào hệ thống phân phối trong cả nước và phục vụ xuất khẩu. Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ ngành, địa phương khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo tổ chức rất nhiều các Hội nghị, hội thảo quảng bá, kết nối tiêu thụ các sản phẩm, hàng hóa là lợi thế phát triển của các địa phương tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ngãi, Kiên Giang, Quảng Ninh… đã kết nối được hơn 60 doanh nghiệp với trên 80 hợp đồng tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đây chỉ là kết quả từ kinh phí của Chương trình.

Ngoài ra Bộ Công Thương đã lồng ghép vào các chương trình kết nối cung cầu mục tiêu quốc gia cũng như các đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam để kết nối hàng ngàn doanh nghiệp cũng như hộ kinh doanh, hợp tác xã để đưa được hàng vào hệ thống phân phối trên toàn quốc và xuất khẩu với con số hàng ngàn hợp đồng và con số tiêu thụ hàng triệu nghìn tỉ đồng.

Bộ Công Thương cũng đã phối hợp và cấp kinh phí xây dựng 02 mô hình phân phối đặc thù phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng tại 02 huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và huyện đảo Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tạo điều kiện cho người dân trên địa bàn huyện đảo sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm đặc trưng của huyện đảo. Hiện nay sản phẩm tỏi Lý Sơn cũng như sản phẩm thuỷ sản, hải sản của Côn Đảo đã đến được các hệ thống phân phối lớn cũng như các cửa hàng thực phẩm sạch...

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã phối hợp với nhiều địa phương tổ chức thành công các sự kiện: Hội thảo, hội chợ trưng bày, quảng bá, giới thiệu các sản phẩm đặc trưng, có lợi thế của các địa phương nhằm kết nối tiêu thụ phân phối ổn định tại các siêu thị, trung tâm thương mại, chợ đầu mối như: Hội chợ quảng bá sản phẩm sâm Ngọc Linh và các sản phẩm đặc trưng miền núi tỉnh Quảng Nam; thúc đẩy tiêu thụ thông qua hệ thống Chợ đầu mối nông sản thực phẩm Dầu Giây, tỉnh Đồng Nai; Hội nghị thương mại kết nối thị trường cho các sản phẩm đặc sản, đặc trưng khu vực. Phối hợp với các địa phương như Quảng Bình, Lai Châu, Sơn La tổ chức các hoạt động thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông sản có thế mạnh của địa phương vào chuỗi phân phối của các siệu thị lớn trong nước và xuất khẩu.

Việc thực hiện Chương trình còn tạo được hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin phục vụ cho phát triển hoạt động thương mại, nâng cao chất lượng sản phẩm được sản xuất trên địa bàn, hình thành hệ thống phân phối, mối liên kết bạn hàng giữa các vùng, miền để tạo thành một chuỗi cung ứng – tiêu thụ có tính liên tục góp phần giảm nghèo bền vững khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; nâng cao thu nhập của người dân khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; củng cố an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền quốc gia trên địa bàn miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.

Tiếp nối cho giai đoạn 2015-2020, nhằm tiếp tục thúc đẩy hoạt động thương mại tại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1162/QĐ-TTg ngày 13/7/2021 về việc phê duyệt Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021-2025.

Mục tiêu cụ thể của chương trình trong cả giai đoạn 2021-2025 là phấn đấu đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo đạt mức tăng trưởng 9 - 11% hàng năm; phát triển các sản phẩm, hàng hóa có thương hiệu là đặc trưng, đặc sản, tiềm năng, lợi thế của khu vực; khuyến khích, phát triển thương nhân, doanh nghiệp có năng lực thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại tại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, mỗi năm tăng trung bình 8 - 10% số lượng thương nhân, doanh nghiệp này. Xây dựng hệ thống phân phối hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo chuỗi; Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về cơ chế, chính sách cho phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo thống nhất, đồng bộ;… Chương trình được thực hiện tại 287 huyện có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn thuộc 48 tỉnh/thành phố trên cả nước.

Theo bà Lê Việt Nga, đây là địa bàn đã được Bộ Công Thương đưa vào rất nhiều cơ chế chính sách và trình Lãnh đạo Chính phủ ban hành. Đặc biệt nữa, đã đưa được vào địa bàn được sự hỗ trợ cung ứng xăng dầu thiết yếu, cho phép hoạt động của thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ theo Khoản 6 Điều 1 Thông tư số 17/2021/TT-BCT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 38/2014/TT-BCT hướng dẫn Nghị định 83/2014/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu) cũng như là các cơ chế chính sách khác mà đã được Chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn đến 2030, trong đó đã đưa được hơn 40 tỉnh, thành phố có được nguồn ngân sách hàng năm để đầu tư vào sửa chữa, đầu tư mới các chợ truyền thống trên địa bàn thuộc về miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, hỗ trợ cho đồng bào dân tộc ở khu vực này.

Kế thừa, phát huy những kết quả đạt được của Chương trình giai đoạn 2015-2020, nhằm thực hiện hiệu quả Chương trình giai đoạn 2021-2025, trong năm 2022, Bộ Công Thương đã, phối hợp với các địa phương, cơ quan, đơn vị liên quan bám sát mục tiêu của Chương trình triển khai 15 đề án, nhiệm vụ, tập trung chủ yếu vào các nội dung chính như: Xây dựng mô hình phát triển các mặt hàng tiềm năng lợi thế; Các hoạt động khuyến khích, thúc đẩy phát triển các mặt hàng là tiềm năng, lợi thế của địa phương; Phát triển thương mại hàng hóa và dịch vụ của khu vực gắn với hoạt động du lịch biển đảo; Phát triển đội ngũ thương nhân, doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn; Phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; Phát triển năng lực chuyên môn cho cán bộ làm công tác phát triển thương mại và các hoạt động thông tin, tuyên truyền về phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.

Trong đó, chú trọng vào các hoạt động kết nối cung cầu, thúc đẩy tiêu thụ hàng nông sản, các sản phẩm đặc trưng, có thế mạnh của địa phương như:  Hỗ trợ triển khai kết nối và thu hút được các thương nhân, doanh nghiệp đầu tư, phát triển hoạt động thu mua, quảng bá sản phẩm hàng hóa nông lâm thủy sản; tổ chức các Hội nghị, hội thảo, hội chợ trưng bày, quảng bá, giới thiệu các sản phẩm đặc trưng, có lợi thế của các địa phương nhằm kết nối tiêu thụ ổn định vào chuỗi phân phối của các siêu thị lớn trong nước và xuất khẩu; hỗ trợ các địa phương tổ chức xây dựng mô hình phát triển các sản phẩm đặc trưng của địa bàn; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm tiềm năng, lợi thế của các địa phương; tổ chức Hội nghị/Hội thảo giới thiệu, quảng bá, mở rộng thị trường, kết nối tiêu thụ nông sản, sản phẩm thế mạnh của địa phương vào các kênh phân phối hiện đại, bước đầu hình thành những chuỗi cung ứng, tiêu thụ sản phẩm đặc trưng vùng miền theo hướng hiện đại, bền vững, đặc biệt đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử trong việc hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất kinh doanh của địa phương khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới và các rủi ro liên quan đến đại dịch Covid-19.

Bà Lê Việt Nga cho biết, Diễn đàn kinh tế “Kết nối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo” hôm nay cũng là một trong những hoạt động của Bộ Công Thương triển khai Chương trình năm 2022 với mục tiêu kết nối, hỗ trợ các đơn vị sản xuất kinh doanh sản phẩm đặc sản miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo. Đây sẽ là cơ hội để các cơ quan, đơn vị, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm về các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn hoạt động sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo; từ đó đề xuất các giải pháp hỗ trợ, chính sách khuyến khích, ưu đãi nhằm đẩy mạnh sản xuất, tiêu thụ những sản phẩm, mặt hàng là lợi thế của khu vực miền núi và hải đảo, qua đó góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo trong những năm tiếp theo.

Thứ trưởng Hải - thương mại miền núi

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết, qua 5 năm triển khai, thực hiện Quyết định số 964/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2015-2020, đã đem lại những kết quả tích cực về sản xuất, phân phối và tiêu dùng trên các địa bàn còn nhiều khó khăn.

Không chỉ kết nối và thu hút được các thương nhân, doanh nghiệp đầu tư, phát triển hoạt động thu mua, quảng bá sản phẩm hàng hóa nông lâm thủy sản của khu vực miền núi, hải đảo, mà thông qua tổ chức các Hội nghị, hội thảo còn hình thành được những chuỗi cung ứng, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hiện đại, bền vững. Nhiều đặc sản vùng, miền như xoài Sơn La, sâm Ngọc Linh, bơ sáp Đắk Lắk, cá hồi Sapa, rượu sim Phú Quốc… và còn rất nhiều các sản phẩm khác đã mở được đường vào hệ thống phân phối có uy tín trên cả nước và xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.

Những hoạt động đa dạng, phong phú, liên tục của Chương trình đã và đang phát huy hiệu quả trong phát triển hệ thống chính sách, đẩy mạnh sản xuất tiêu thụ hàng hóa, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, tiểu thương, tăng cường năng lực cho công chức, viên chức của tỉnh, huyện, xã về phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo… "Ngoài ra, Chương trình còn mang ý nghĩa quan trọng trong thực hiện mục tiêu chung là thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền; đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế -xã hội, nâng cao thu nhập của người dân, đảm bảo an ninh quốc phòng ở miền núi,vùng sâu, vùng xa và hải đảo", Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh.

Đến nay chúng ta đã tạo ra những nền tảng căn bản cho phát triển thương mại miền núi và hải đảo. Song, những thách thức từ xung đột địa chính trị, từ dịch bệnh, biến đổi khí hậu ở cấp độ toàn cầu, đã tác động đáng kể đến các chuỗi cung ứng, đòi hỏi những quyết sách mạnh mẽ hơn.

Tháng 7/2021, Thủ tướng đã ký ban hành Quyết định 1162/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025, với những yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, ứng dụng thương mại điện tử, khuyến khích tham gia vững chắc vào tiến trình hội nhập đối với khu vực miền núi, hải đảo; tạo ra động lực mạnh mẽ phát triển hàng hóa có thương hiệu của khu vực này vào hệ thống phân phối trong và ngoài nước.

Thứ trưởng cho biết, Diễn đàn kinh tế Kết nối sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo tổ chức là hoạt động mở đầu cho chuỗi sự kiện truyền thông hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo năm 2022.

Diễn đàn sẽ cùng nghe Báo cáo tình hình hỗ trợ sản xuất, kết nối tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, hải đảo; cùng các phiên thảo luận về xây dựng chính sách đặc thù, về thực tiễn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tại vùng núi, hải đảo, nhằm sáng tạo và đa dạng hơn nữa các phương thức hỗ trợ doanh nghiệp, địa phương phát triển hàng hóa có thương hiệu, tiềm năng, lợi thế đưa vào hệ thống phân phối trong và ngoài nước; hướng dẫn phát triển sản phẩm, hàng hóa tại miền núi, hải đảo đáp ứng tiêu chuẩn, chất lượng tham gia hệ thống phân phối trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP về thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, ngay từ đầu năm, Bộ Công Thương đã ban hành Chương trình hành động, trong đó, lên kế hoạch triển khai nhiều chương trình, đề án, gồm: Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" giai đoạn 2021 - 2025; Đề án “Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”; Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021-2025.

Ngày 16/9 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong tình hình mới, trong đó có giao Bộ Công Thương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp khơi thông, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường trong nước; phát triển hệ thống phân phối bán lẻ; thúc đẩy thương mại điện tử; đa dạng hóa thị trường và hàng hóa xuất khẩu…

Trong bối cảnh đó, việc tổ chức Diễn đàn kinh tế Kết nối sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo sẽ góp phần vào việc tăng cường kết nối cung cầu, bảo đảm nguồn lực duy trì chuỗi cung ứng liên tục, đa dạng ở thị trường trong và ngoài nước, nâng cao khả năng thích ứng, sức chống chịu trong một thế giới đầy biến động.

diễn đàn