Điện gió tại Việt Nam: Nhận diện thách thức và đề xuất giải pháp phát triển

HOÀNG THỊ XUÂN (NCS. Học viện Khoa học Xã hội)

TÓM TẮT:

Việt Nam với lợi thế là bờ biển dài trên 3.200km trải dài khắp đất nước và tốc độ gió trung bình ở Biển Đông Việt Nam hằng năm lớn hơn 6m/s ở độ cao 65m nên tiềm năng về điện gió là rất lớn. Mặc dù tiềm năng lớn, cùng với một số chính sách hỗ trợ của Chính phủ trong thời gian qua, tuy nhiên thị trường năng lượng gió tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu với nhiều thách thức. Do vậy, bài viết phân tích tiềm năng, nhận diện những thách thức, chính sách, từ đó đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát triển năng lượng gió tại Việt Nam. 

Từ khóa: điện gió tại Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng, đặc biệt là ở miền Nam, nơi có nhu cầu về năng lượng và tốc độ tăng trưởng cao, trong khi các nguồn thủy điện lớn đã khai thác hết, các thủy điện nhỏ không đảm bảo lợi ích mang lại so với thiệt hại môi trường mà nó gây ra. Bên cạnh đó, trước sự biến động của giá dầu thế giới, sự cạn kiệt của nhiên liệu hóa thạch, thì điện gió được xem là nguồn tài nguyên dồi dào ở miền Nam với nhiều ưu điểm và có thể triển khai nhanh chóng. Là một trong những quốc gia chịu tác động nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, Việt Nam đã quan tâm đầu tư sản xuất điện gió nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước đang tăng vọt, giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Việc nghiên cứu tiềm năng, thách thức, nhằm đưa ra một số đề xuất phù hợp thúc đẩy phát triển điện gió tại Việt Nam, nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và phù hợp với xu hướng phát triển năng lượng trên thế giới hiện nay và trong tương lai.

2. Thực trạng phát triển điện gió tại Việt Nam từ năm 2010 đến nay

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là nước có tiềm năng năng lượng gió lớn nhất trong 4 nước của khu vực, với hơn 39% tổng diện tích của Việt Nam được ước tính có tốc độ gió trung bình hằng năm lớn hơn 6m/giây ở độ cao 65m, tương đương công suất 512 GW. Đặc biệt, gần 8% diện tích Việt Nam được xếp hạng có tiềm năng gió rất tốt, với tốc độ gió ở độ cao 65m là 7 - 8 m/giây.

Bảng 1. Tiềm năng gió của Việt Nam ở độ cao 65m

Tiềm năng gió của Việt Nam ở độ cao 65m

Nguồn: [6]

Những ưu đãi về đầu tư xây dựng nhà máy và giá bán điện cho ngành Điện lực Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư cả trong và ngoài nước [3]. Vì thế, tuy bắt đầu xây dựng nhà máyđiện giótừ năm 2012 (Nhà máy Điện gió Tuy Phong - nay gọi là Điện gió Bình Thạnh), nhưng đến giữa năm 2019, Việt Nam đã có vài chục dự án có công suất lắp máy từ 20 đến 250 MW đã hoặc sắp hoàn thành [14].

Kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 39/QĐ - TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ - TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam, hiện nay, đã có nhiều dự án được đề xuất và được thi công xây dựng. Trong đó dự án lớn nhất là Trang trại điện gió Bạc Liêu với 99 MW, dự án nhỏ nhất là Nhà máy Điện gió Phú Quý 6 MW nối lưới độc lập (không nối lưới điện quốc gia) trên đảo Phú Quý (Bình Thuận), các nhà máy điện gió còn lại có quy mô công suất nhỏ dưới 50 MW. Các dự án điện gió khác đang triển khai chậm, nhiều trường hợp còn đang trong quá trình xin giấy phép hoặc gặp khó khăn trong tìm nhà đầu tư [11].

Bảng 2. Các nhà máy điện gió tại Việt Nam

Các nhà máy điện gió tại Việt Nam

Các nhà máy điện gió tại Việt Nam

(*): Tổng công suất lắp máy dự kiến của giai đoạn mở rộng dự án                                      

Nguồn: [14]

Một yếu tố khác thúc đẩy sự phát triển của ngành năng lượng này chính là xu hướng giảm chi phí trong sản xuất, dẫn đến việc giá thành các tuabin gió sẽ ngày càng cạnh tranh hơn trên thị trường.

Theo dữ liệu mới nhất, giá điện gió năm 2018 từ các nhà máy trong đất liền được bán cho lưới điện quốc gia là 8,5 US cent/kWh, còn từ các cơ sở ngoài khơi là 9,8 US cent/kWh. Mức giá này sẽ hết hạn trong năm 2021.

Tính đến nay, tổng công suất lắp đặt nguồn toàn hệ thống đã ở mức khoảng 69.000 MW. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng đang ngày càng lớn, Việt Nam sẽ cần khoảng137,2GW điện vào năm 2030, ước tính vốn đầu tư khoảng128,3 tỷ USD.

Tổng công suất điện gió tính đến năm 2020 là 327 MW.Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) phát triển điện gió ngoài khơi với các dự án đã được lắp đặt hiện đạt 99 MW. Không dừng lại ở đó,trong bản Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia hiện hành, Việt Nam còn đặt mục tiêu nâng tổng công suất điện gió lên 6.000 MW vào năm 2030.

Vào tháng 7/2020, Chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép khảo sát xây dựng nhà máy điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới,với công suất 3.400 MW ở mũi Kê Gà, tỉnh Bình Thuận. Sau khi hoàn thành, công suất của dự án này này sẽ vượt xa các nhà máy nhiệt điện sử dụng than, khí đốt và kể cả nhà máy thủy điện lớn nhất quốc gia [14-15].

Tuy tiềm năng điện gió rất lớn, nhưng thực tế, các dự án điện gió chưa phát huy hiệu quả, nguyên nhân do có quá nhiều rào cản, khó khăn về pháp lý, kỹ thuật, tài chính, nhân lực và chủ đầu tư dự án. 

3. Những thách thức trong phát triển điện gió

Thứ nhất, thách thức về cơ chế chính sách: Mặc dù Việt Nam là một nước có tiềm năng lớn về nguồn năng lượng gió, nhưng cho đến nay, số các dự án thực hiện còn rất ít do thiếu các chính sách đủ mạnh, đồng bộ, bao gồm từ điều tra, đánh giá tiềm năng đến khai thác và sử dụng.

Thứ hai, thách thức về công nghệ, kỹ thuật: Thiếu số liệu cần thiết và tin cậy về tốc độ gió cho nghiên cứu phát triển nguồn điện gió ở các khu vực khác nhau; Thiết bị nhà máy điện gió đều là thiết bị siêu trường, siêu trọng trong khi cơ sở hạ tầng đường, cảng còn thô sơ dẫn đến rủi ro cao và không đảm bảo an toàn; Thiếu năng lực quản lý, vận hành và bảo dưỡng sửa chữa các dự án điện gió; Thiếu thông tin đánh giá về tiềm năng điện gió ngoài khơi, cũng như khả năng nối lưới các dự án sau khi hoàn thành; Các dự án điện gió ở vùng đất bãi bồi ven biển có địa hình, địa chất tương đối phức tạp và chịu ảnh hưởng bởi thời tiết khắc nghiệt như mưa, bão, sóng to, gió lớn, kết hợp với chế độ thủy triều không ổn định sẽ dẫn đến nhiều thách thức trong quá trình thi công lắp đặt thiết bị; Công nghệ mới và kỹ thuật phức tạp, các nhà thầu trong nước chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thi công xây dựng, lắp đặt tuabin gió trên biển.

Thứ ba, thách thức về kinh tế, tài chính: Thách thức lớn nhất đối với phát triển điện gió nằm ở vốn đầu tư và khả năng thu xếp vốn của chủ đầu tư. Một trong những yếu tố rủi ro chính là việc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) - cơ sở duy nhất thu mua toàn bộ điện từ các nhà sản xuất, là đơn vị độc quyền trong các hoạt động thanh toán và đàm phán hợp đồng mua bán điện. Theo quan điểm của nhiều nhà đầu tư, điều này dẫn dễ đến khả năng thiếu minh bạch trong các giao dịch với EVN và không mang lại lợi nhuận về lâu dài.

Thứ tư, điện giólà điện năng chỉ được tạo ra khi có gió và công suất phát ra thay đổi theo mức gió. Vùng thuận lợi cho đặt nhà máy cũng thường cách xa vùng tiêu thụ, gây khó khăn rất lớn trong công tác vận hành, ổn định hệ thống; khó khăn về nhập khẩu các thiết bị, thiếu chuyên gia nước ngoài phối hợp kỹ thuật.

Thứ năm, ngoài những thách thức nêu trên, điện gió ngoài khơi cũng đang là một thách thức lớn đối với ngành Năng lượng Việt Nam, khi các nước trên thế giới đang chạy đua lắp đặt với nhiều đặc điểm ưu việt, lợi ích. Ở Việt Nam, điện gió ngoài khơi vẫn được coi là công nghệ mới, khi triển khai chắc chắn sẽ gặp nhiều vấn đề về công nghệ, cũng như chi phí phát triển. Bên cạnh đó là khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, thi công móng trụ tuabin, trụ đường dây dẫn, hành lang tuyến đường dây khi nhu cầu đất đai cho các dự án điện gió trên bờ cần khoảng 28.000 ha, vấn đề mất đất trồng trọt và kế sinh nhai của người dân, đảm bảo an sinh xã hội. Các nhà phát triển còn phải đối mặt với khả năng thiếu lao động chất lượng cao,cũng như tình trạng chậm phát triển của những ngành công nghiệp phụ trợ [2, 4-5, 7-8, 15].

4. Chính sách phát triển điện gió tại Việt Nam

Với định hướng phát triển nền kinh tế xanh bền vững, phù hợp với những cam kết quốc tế, thời gian qua, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng gió, như: Quyết định số 2068/QĐ - TTg ngày 25/11/2015 phê duyệt Chiến lược Phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/9/2018 về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam; Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ tại Quyết định số 1264/QĐ-TTg ngày 01/10/2019; Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ tại Quyết định số 1743/QĐ-TTg ngày 03/12/2019; Nghị quyết số 55 - NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 [1, 9-12].

Trong giai đoạn hơn 2 thập kỷ vừa qua, một hệ thống các cơ chế, chính sách cho phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng gió đã được xây dựng và từng bước hoàn thiện với những ưu đãi về giá cho các nhà đầu tư, nhà sản xuất, tạo động lực thúc đẩy cho sự phát triển của thị trường năng lượng tái tạo tại Việt Nam nói chung và điện gió nói riêng. Tiềm năng phát triển điện gió của Việt Nam vẫn còn rất lớn, đa dạng và phong phú, vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện những cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ điện gió tại Việt Nam để phục vụ đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

5. Những đề xuất nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển điện gió trong giai đoạn 2021 - 2030

Thứ nhất, quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kế tiếp của Việt Nam sẽ là cơ hội quan trọng để tăng mục tiêu phát triển điện gió với chi phí thấp. 

Thứ hai, để hiện thực hóa tiềm năng lớn của năng lượng gió ngoài khơi, cần sớm xác định rõ vai trò của năng lượng gió trong quy hoạch cơ sở hạ tầng.

Thứ ba, để đảm bảo hệ thống vận hành ổn định nếu nguồn năng lượng gió có tỉ lệ tích hợp lớn trong hệ thống, cần thiết phải đầu tư thêm các nguồn điện có đặc tính vận hành linh hoạt để tăng mức dự phòng cho hệ thống. Bên cạnh đó, lưới điện truyền tải cũng cần được đầu tư lớn hơn để không tạo điểm tắc nghẽn trên lưới điện.

Thứ tư, để giải quyết vấn đề về nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp đầu tư điện gió cần nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là các Tập đoàn Nhà nước như EVN. Khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực gió; Đặc biệt, cần tăng cường thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài, bao gồm: vốn viện trợ phát triển chính thức ưu đãi, viện trợ phát triển chính thức không ưu đãi, vay thương mại nước ngoài, ưu tiên phân bổ vốn tín dụng ưu đãi từ nguồn vốn ODA và vốn vay theo hiệp định song phương cho đầu tư vào các dự án như thăm dò, phát triển năng lượng gió.   

Thứ năm, định hướng chính sách năng lượng tái tạo đúng đắn cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh bền vững, thể chế hóa các quy định pháp luật thông qua việc xây dựng Luật Năng lượng tái tạo nhằm huy động hiệu quả các nguồn lực phát triển nguồn năng lượng này; xây dựng các cơ chế hỗ trợ hiệu quả cho năng lượng gió và đảm bảo việc vận hành hiệu quả.

Thứ sáu, cần bổ sung các giải pháp về chính sách tài khóa cho huy động vốn phát triển ngành năng lượng, sử dụng thuế và phí khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển năng lượng xanh, chính sách chi tiêu xanh ưu tiên mua sử dụng năng lượng sạch và chính sách tín dụng xanh cho ngành năng lượng tái tạo nói chung và điện gió nói riêng.

6. Kết luận

Mặc dù là nước có tiềm năng lớn về năng lượng gió, tuy nhiên việc phát triển các nguồn năng lượng gió trong thời gian qua vẫn tiếp tục đối mặt với một số bất cập và thách thức, như chi phí đầu tư còn cao, số giờ vận hành nguồn điện thấp, yêu cầu sử dụng đất lớn. Thách thức lớn nhất để phát triển nguồn điện này là cần có cơ chế, chính sách ổn định và lựa chọn được chủ đầu tư có năng lực về tài chính, cũng như có kinh nghiệm đầu tư, triển khai thực hiện một cách có hiệu quả. Để khai thác được nguồn năng lượng này tại Việt Nam một cách hiệu quả, rất cần một sự đầu tư bài bản, cụ thể, đủ mạnh ở cấp quốc gia và phải đặt nó vào vị trí quan trọng, nhằm tạo ra những tiền đề cho việc hoạch định các chiến lược, chính sách, kế hoạch, lộ trình phát triển cụ thể. Bên cạnh đó, cần có hàng loạt các cơ chế khuyến khích cho điện gió, các chính sách ưu đãi khác cho các nhà đầu tư, như: ưu tiên cung cấp tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, sử dụng hợp đồng mua bán điện mẫu,… Mong rằng, với sự quan tâm, chỉ đạo của Nhà nước thông qua một hệ thống chính sách, có một chương trình thống nhất và sự tài trợ thích đáng của ngân sách, cũng như các trợ giúp quốc tế về kỹ thuật, công nghệ, tài chính, điện gió tại Việt Nam sẽ đạt được kết quả tương xứng với tiềm năng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN:

  1. Bộ Chính trị. (2020). Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  2. Hồng Hạnh. (2018). Điện gió là động lực phát triển chính hướng tới tương lai năng lượng bền vững. Truy cập tại https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/dien-gio-la-dong-luc-phat-trien-chinh-huong-toi-tuong-lai-na2.html
  3. Tập đoàn Điện lực Việt Nam. (2018). Chia sẻ kinh nghiệm phát triển điện gió tại Việt Nam. Truy cập tại https://www.evn.com.vn/d6/news/Chia-se-kinh-nghiem-phat-trien-dien-gio-tai-Viet-Nam-141-17-21816.aspx
  4. Guezuraga, Begođa; Zauner, Rudolf; Pưlz, Werner. (2012). Life cycle assessment of two different 2 MW class wind turbines. Renewable Energy,37(1), 37-44.
  5. Năng lượng Việt Nam. (2019). Tiềm năng và thách thức phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Truy cập tại http://nangluongvietnam.vn/news/vn/nhan-dinh-phan-bien-kien-nghi/tiem-nang-va-thach-thuc-phat-trien-nang-luong-tai-tao-o-viet-nam-ky-1.html
  6. Năng lượng Việt Nam. (2012). Tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam. Truy cập tại http://nangluongvietnam.vn/news/vn/dien-hat-nhan-nang-luong-tai-tao/tiem-nang-nang-luong-gio-cua-viet-nam.html
  7. Ngân Quyên. (2019).Tiềm năng phát triển điện gió. Truy cập tại https://aeec.vn/tiem-nang-phat-trien-dien-gio/
  8. Ly Vũ. (2021). Tiềm năng và thách thức trong phát triển điện gió ở Việt Nam. Truy cập tại https://nhandan.vn/science-news/tiem-nang-va-thach-thuc-trong-phat-trien-dien-gio-o-viet-nam-630893/
  9. Thomas Kirchhoff. (2014).Energiewende und Landschaftssthetik. Versachlichung sthetischer Bewertungen von Energieanlagen durch Bezugnahme auf drei intersubjektive Landschaftsideale. Naturschutz und Landschaftsplanung, 46(1), 10-16.
  10. Thủ tướng Chính phủ. (2019). Quyết định số 1743/QĐ-TTg ngày 03/12/2019 V/v Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
  11. Thủ tướng Chính phủ. (2019). Quyết định số 1264/QĐ-TTg ngày 01/10/2019 V/v Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  12. Thủ tướng Chính phủ. (2018). Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 V/v Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam.
  13. Thủ tướng Chính phủ. (2015). Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 V/v Phê duyệt Chiến lược phát năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
  14. Trung tâm Thông tin điện lực - Tập đoàn Điện lực Việt Nam. (2020). Phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam: Kỳ vọng và thách thức. Truy cập tại https://tietkiemnangluong.evn.com.vn/d6/news/Phat-trien-dien-gio-ngoai-khoi-Viet-Nam-Ky-vong-va-thach-thuc-163-110-13447.aspx
  15. Điện gió tại Việt Nam. Truy cập tại https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_gi%C3%B3 _t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam
  16. Đỗ Tôn Minh Khoa. (2020). Phát triển năng lượng sạch ở Việt Nam: tiềm năng lộng gió. Truy cập tại https://www.eco-business.com/news/gusty-growth-vietnams-remarkable-wind-energy-story-vietnamese/.

WIND ENERGY DEVELOPMENT IN VIETNAM:

CHALLENGES AND SOME SOLUTIONS

• PhD student HOANG THI XUAN

Graduate Academy of Social Sciences

ABSTRACT:

Vietnam has a long coastline of more than 3,200km and the average wind speed in the East Sea of Vietnam annually is greater than 6 meters per second at the altitude of 65 meters. As a result, Vietnam has great potential for wind power development. Despite its great potential and some supportive policies from the government in recent year, Vietnam’s wind energy market has still faced many challenges. This paper analyzes potential, challenges, and policies about the wind energy development in Vietnam. Based on the paper’s findings, some solutions are presented to promote the development of wind energy market in Vietnam in the coming time.

Keywords: wind power in Vietnam.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 16, tháng 7 năm 2021]