Chuyển dịch năng lượng gắn với phát triển hạ tầng hiệu quả và bền vững

Chuyển dịch năng lượng là hướng đi tất yếu để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, thích ứng với điều kiện phát triển trong thời gian tới của đất nước, đặc biệt là cam kết quốc tế của Việt Nam về trung hoà phát thải carbon vào năm 2050 tại Hội nghị COP26.

Chiều ngày 15/12/2021, tại khách sạn Melia, Hà Nội, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ) tổ chức Hội thảo chuyên đề về “Chuyển dịch năng lượng Việt Nam - cơ hội và thách thức”, theo hình thức trực tiếp và trực tuyến. Hội thảo là một phần hoạt động của Dự án “Một số nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu năng lượng gắn với phát triển hạ tầng năng lượng hiệu quả và bền vững phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045” do GIZ phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương thực hiện năm 2021, trong khuôn khổ Dự án EVEF, do Liên minh Châu Âu (EU) và Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển CHLB Đức (BMZ) đồng tài trợ cho Chính phủ Việt Nam.

Đại diện ban Kinh tế Trung ương, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, Đại sứ quan Đức và Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam đã đồng chủ trì Hội thảo, cùng với sự tham gia của gần 50 đại biểu tham dự trực tiếp tại hội trường và hơn 100 đại biểu tham dự trực tuyến tại các điểm cầu, là đại diện các Bộ, Ban ngành Trung ương, đại diện UBND, Sở Công Thương các tỉnh, thành phố, các tập đoàn, tổng công ty trong lĩnh vực năng lượng, các tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước và các chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng. 

Hội thảo chuyên đề về “Chuyển dịch năng lượng Việt Nam - cơ hội và thách thức”
Hội thảo chuyên đề về “Chuyển dịch năng lượng Việt Nam - cơ hội và thách thức” (Ảnh: GIZ Việt Nam)

Phát biểu tại Hội thảo, ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, thúc đẩy chuyển dịch năng lượng từ các nguồn năng lượng truyền thống từ các nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo đang là xu hướng lớn mang tính toàn cầu để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế phát triển bền vững, bảo đảm yêu cầu chống biến đổi khí hậu. Việt Nam được đánh giá là một trong sáu quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất bởi biến đổi khí hậu theo báo cáo về chỉ số rủi ro khó hậu toàn cầu năm 2020; những thảm họa thiên nhiên đã cướp đi mạng sống của 13.000 người và gây thiệt hại về tài sản trị giá 6,4 tỷ USD tương đương 1,5% GDP trong hai thập kỷ qua. 

Trong những năm qua, Việt Nam đã luôn tích cực trong thực hiện các cam kết của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững và tích cực tham gia Thỏa thuận chung Paris trong khuôn khổ Công ước chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP21). Gần đây, trong phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh khí hậu được tổ chức trong khuôn khổ Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP26), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đề ra mục tiêu Việt Nam đạt mức phát thải ròng “0” vào năm 2050. 

Nhiều nghiên cứu đã cho rằng, xu hướng phát triển năng lượng của thế giới sẽ đi theo hướng thay thế dần các nguồn năng lượng hóa thạch (than, dầu mỏ) bằng các nguồn năng lượng xanh và sạch hơn (gió, mặt trời, sinh khối, hydro xanh, methanol…), tương ứng với tỷ trọng nhiên liệu hóa thạch trong cơ cấu năng lượng sơ cấp sẽ giảm từ mức 81% năm 2018 về mức 54% năm 2050. Tiêu thụ than sẽ giảm dần từ 27% năm 2018 còn 9% năm 2050 và Tỷ lệ năng lượng điện tái tạo từ điện mặt trời và điện gió có chiều hướng tăng từ 1% năm 2018 lên 23% vào năm 2050.

Ngày 11/2/2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về “Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Nghị quyết 55 đã đề ra hệ thống các quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ giải pháp lớn về chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam trong thời gian tới.

Một là, “bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia… ưu tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái” với mục tiêu: giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045; 

Hai là, “ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch” với mục tiêu: Tỉ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 - 20% vào năm 2030; 25 - 30% vào năm 2045; 

Ba là, “khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng hoá thạch trong nước, chú trọng mục tiêu bình ổn, điều tiết và yêu cầu dự trữ năng lượng quốc gia; ưu tiên phát triển điện khí, có lộ trình giảm tỉ trọng điện than một cách hợp lý”; 

Bốn là, “sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội” với mục tiêu: Tỉ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình thường đạt khoảng 7% vào năm 2030 và khoảng 14% vào năm 2045; 

Năm là, “nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hoá hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng”. Đồng thời, xác định chuyển dịch không chỉ là của ngành năng lượng mà phải gắn với cơ cấu lại các ngành và khu vực tiêu thụ năng lượng.

Ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu khai mạc Hội thảo
Ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu khai mạc Hội thảo (Ảnh: GIZ Việt Nam)

Theo Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển, vấn đề chuyển dịch năng lượng hiện nay trong bối cảnh tình hình phát triển kinh tế - xã hội của những năm đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ XIII gặp một số khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19; bên cạnh đó, vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng trong đó có yếu tố đảm bảo ổn định nguồn cung với giá cả hợp lý cũng đặt ngành năng lượng nước ta những thách thức không nhỏ. 

Thực tế cho thấy, đầu tư vào ngành năng lượng luôn đòi hỏi quy mô vốn rất lớn, công nghệ  cao; việc triển khai các dự án đầu tư phát triển năng lượng phức tạp, liên quan đến công tác quản lý Nhà nước của nhiều cơ quan chức năng, thời gian thực hiện thường kéo dài; trong thời gian qua, nhiều dự án phát sinh chi phí và bị chậm tiến độ. Phát triển năng lượng tái tạo thời gian qua đã có chuyển biến hết sức tích cực, các quyết định về cơ chế giá FIT cho các loại hình năng lượng tái tạo đã thúc đẩy nhanh các dự án điện gió, điện mặt trời xây dựng và đưa vào vận hành với quy mô công suất lắp đặt khá cao, tuy nhiên hiệu quả khai thác sử dụng còn hạn chế.

Đối với ngành dầu khí, khả năng tìm kiếm, khai thác ở khu vực gần bờ hầu như đã hết dư địa, việc tìm kiếm, khai thác tại các khu vực nước sâu, xa bờ tại Biển Đông gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó, Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 23/7/2015 của Bộ Chính trị về “Định hướng chiến lược phát triển ngành đầu khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” cũng chưa cho phép ngành dầu khí đầu tư mở rộng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo; đây cũng là vấn đề cần được quan tâm tháo gỡ để ngành đầu khí thực hiện chuyển dịch phát triển năng lượng theo xu thế mới, phát huy được tiềm năng, lợi thế về kinh nghiệm và cơ sở hạ tầng công nghiệp khảo sát, xây dựng lắp đặt các công trình biển cho các dự án điện gió ngoài khơi…

Đối với ngành than, việc bảo đảm cung cấp có hiệu quả nguồn than trong nước nhằm đáp ứng yêu cầu than nội địa và phối trộn phục vụ cho các nhà máy điện với chi phí hợp lý và đáp ứng yêu cầu tiến độ đang là nhiệm vụ trọng tâm. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ngành than tại một số địa phương, nhất là tại tỉnh Quảng Ninh cũng phải nhanh chóng thích ứng, bảo đảm các yêu cầu tốt nhất về an toàn môi trường để thích ứng với chiến lược chuyển từ “nâu sang xanh” của địa phương.

Chuyển dịch năng lượng là hướng đi tất yếu để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, thích ứng với điều kiện phát triển trong thời gian tới của đất nước, đặc biệt là cam kết quốc tế của Việt Nam về trung hoà phát thải carbon vào năm 2050 tại Hội nghị COP26”, ông Nguyễn Đức Hiển nhấn mạnh.

Tại Hội thảo, nhóm chuyên gia tư vấn Dự án đã trình bày báo cáo kết quả tóm tắt của Dự án và xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới và những kinh nghiệm thực tế của nước Đức; đại diện Lãnh đạo các tập đoàn năng lượng Nhà nước: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã trình bày tham luận về một số định hướng chuyển dịch cơ cấu năng lương của các Tập đoàn trong giai đoạn tới; tại phiên thảo luận, các đại biểu đã tập trung góp ý cho dự thảo báo cáo Dự án, đồng thời thảo luận thêm về các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển dịch cơ cấu năng lượng gắn với tầm nhìn dài hạn về giảm thiểu phát thải carbon để hướng tới mục tiêu trung hoà carbon vào năm 2050 theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26. Qua đó, tổng hợp, đề xuất một số khuyến nghị khung chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu năng lượng của Việt Nam hiệu quả, bền vững gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về “Định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Thy Thảo